Bản án 42/2019/HS-ST ngày 14/08/2019 về tội buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 42/2019/HS-ST NGÀY 14/08/2019 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 14 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 44/HS-ST ngày 19 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Lương Hữu B, sinh năm 1965 tại tỉnh Kon Tum; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: 21/91 khu phố 3, phường Tam H, thành phố Biên H, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp:lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Công giáo; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn Ch (đã chết) và bà Đoàn Thị Th, sinh năm 1940; vợ tên Trần Thị Ánh Ph, sinh năm 1975 (đã ly hôn); con có 02 người, người lớn nhất sinh năm 2002, người nhỏ nhất sinh năm 2004; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/6/2019 đến ngày 31/7/2019 quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Lê Thành N, sinh năm 1982 tại tỉnh Đồng Nai; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: 3/43 khu phố 7, phường Tam H, thành phố Biên H, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: phụ xe; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Công giáo; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn L(đã chết) và bà Phạm Thị Thu Ng, sinh năm 1958; vợ, con: chưa có; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/6/2019 đến ngày 31/7/2019 quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, Nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Lưu Kim M, sinh năm 1968. Địa chỉ: 88/30 Mạc V, phường 12, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

2. Công ty Cổ phần vận chuyển và Thương mại Liên Châu L. Địa chỉ trụ sở: Phòng BO0602, Lầu 06, Blueky ToWer, Số 1 Bạch Đằng, Phường 2, Quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Trí Th, sinh năm 1965. Địa chỉ: 88/30 Mạc V, phường 12, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền ngày 06/6/2019). Vắng mặt.

3. Công ty TNHH Triều Minh Q. Địa chỉ trụ sở: Số 648 Quốc Lộ 52, Khu phố 1, phường Phước L B, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Trí Th, sinh năm 1965. Địa chỉ: 88/30 Mạc V, phường 12, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền ngày 06/6/2019). Vắng mặt.

4. Công ty TNHH giao nhận INTRA. Địa chỉ trụ sở: LA0301-02 Tầng 3 Lọ A, tòa nhà Lexington, 67 Mai Chí Th, Phường An P, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Trí Th, sinh năm 1965. Địa chỉ: 88/30 Mạc V, phường 12, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền ngày 06/6/2019). Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 05/6/2019, tại khu vực ấp Thuận Tây, xã Lợi Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, Chi cục Hải quan Cửa khẩu Mộc Bài phối hợp Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Mộc Bài tiến hành kiểm tra xe đầu kéo biển số 51C-298.08, rơmooc biển số 51R-055.49 do Lương Hữu B là tài xế cùng phụ xe Lê Thành N điều khiển từ Campuchia về Việt Nam, phát hiện dưới gầm rơmooc biển số 51R-055.49 cất giấu 2.600 bao thuốc lá điếu ngoại nhập (gồm 2.400 bao thuốc lá điếu hiệu Jet và 200 bao thuốc lá điếu hiệu Hero) nên Chi cục Hải quan Cửa khẩu Mộc Bài lập biên bản quả tang, tạm giữ tang vật xử lý theo quy định. Vụ việc được chuyển giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh giải quyết theo thẩm quyền.

Qua điều tra, B và N khai nhận: Ngày 04/6/2019, B là nhân viên lái xe của Công ty Cổ phần vận tải và thương mại Liên Châu L điều khiển xe đầu kéo biển số 51C-298.08, rơmooc biển số 51R-055.49 cùng N nhận chở hàng cho Công ty TNHH Giao nhận Intra, nhận hàng tại Cảng Cát Lái – Thành phố Hồ Chí Minh vận chuyển hàng hóa sang Campuchia theo điều động của quản lý điều tải Nguyễn Trí Thành. Sau khi đã sang hàng tại bãi Songuon – Campuchia, B đi đến tiệm tạp hóa (không rõ biển hiệu) thuộc Thành phố Bavét – Campuchia mua 2.400 (hai nghìn bốn trăm) bao thuốc lá điếu hiệu Jet và 200 (hai trăm) bao thuốc lá điếu hiệu Hero đem về Việt Nam bán lại cho người tên Nhân (không rõ lai lịch) để kiếm lời. Đến khoảng 02 giờ ngày 05/6/2019, B cùng N cất giấu số thuốc lá trên dưới gầm xe rơmooc biển số 51R – 055.49 và thùng để phụ tùng của rơmooc. Khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, B điều khiển xe đầu kéo biển số 51C – 298.08, rơmooc biển số 51R – 055.49 đi cùng N nhập cảnh từ Campuchia vào Việt Nam, khi đến khu vực ấp Thuận Tây, xã Lợi Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh thì bị phát hiện như nêu trên.

Ngoài lần bắt quả tang, B khai nhận còn 02 lần mua thuốc lá điếu tại Campuchia đem về Việt Nam bán kiếm lời, cụ thể:

Lần thứ nhất: Vào ngày 25/5/2019, B mua 300 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Jet tại Campuchia với giá 4.800.000 đồng đem về Việt Nam bán cho người tên Nhân không rõ lai lịch tại Thành phố Hồ Chí Minh với số tiền 5.300.000 đồng.

Lần thứ hai: Vào ngày 02/6/2019, B mua 300 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Jet tại Campuchia với giá 4.800.000 đồng đem về Việt Nam bán cho người tên Nhân không rõ lai lịch tại Thành phố Hồ Chí Minh với số tiền 5.300.000 đồng.

Vật chứng thu giữ: 2.400 (hai nghìn bốn trăm) bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Jet; 200 (hai trăm) bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Hero; 26 (hai mươi sáu) túi nylon màu đen; 01 (một) hộ chiếu số C6079193, mang tên Lương Hữu B; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 271471180 mang tên Lê Thành N; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S7 Edge, số IMEI: 355083080067728; 355084080067726, màu đen, của Lương Hữu B, đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7, số IMEI: 353236072093530; 353237072093538, màu vàng cát, của Lê Thành N, đã qua sử dụng; 01(một) đầu kéo biển số: 51C 298.08, Romooc biển số 51R-055.49, Container rỗng ký hiệu TRLU-7532511, tất cả đã qua sử dụng; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe đầu kéo biển số 51C-298.08 do Lưu Kim Mai, chủ sở hữu; 01(một) giấy chứng nhận đăng ký Romooc biển số 51R-055.49 HTX vận tải số 9, địa chỉ: 167 Trần Tuấn Khải, phường 5, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh làm chủ sở hữu.

Ngày 02/7/2019 Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh đã trả lại cho ông Nguyễn Trí Th 01 (một) Romooc biển số 51R- 055.49; 01 (một) Container rỗng ký hiệu TRLU-7532511; 01(một) giấy chứng nhận đăng ký Romooc biển số 51R-055.49 HTX vận tải số 9 và đã trả lại cho bà Lưu Kim M 01(một) đầu kéo biển số 51C-298.08; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe đầu kéo biển số 51C-298.08. Ông Th, bà M đã nhận lại xong.

Hành vi mua thuốc lá điếu của B trước ngày bắt quả tang, do không thu giữ được vật chứng nên không đủ cơ sở xử lý;

Hành vi của người tên Nhân mua thuốc lá điếu của B không rõ lai lịch nên chưa làm việc được, khi nào làm việc được xử lý sau;

Hành vi của Nguyễn Trí Th điều động B giao hàng sang Campuchia nhưng không biết việc B và N mua bán thuốc lá điếu nên không xử lý.

Ngày 06/8/2019 bị cáo Lương Hữu B, Lê Thành N có đơn tự nguyện nộp vào tài khoản tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Chi nhánh huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh và nộp cho Tòa án sổ tiết kiệm mang tên Lương Hữu B số tài khoản 5708401003953 và Lê Thành N số tài khoản 5708401003960. Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu ra Lệnh phong tỏa tài khoản số: 03/2019/HSST-LPTTK ngày 06/8/2019 đối với tài khoản 5708401003953 của Lương Hữu B, số tiền trong tài khoản bị phong tỏa là 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng) và ra Lệnh phong tỏa tài khoản số: 04/2019/HSST-LPTTK ngày 06/8/2019 đối với tài khoản 5708401003960 của Lê Thành N, số tiền trong tài khoản bị phong tỏa là 100.000.000đ (Một trăm triệu) đồng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Chi nhánh huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh.

Tại bản cáo trạng số: 47/CT-VKSBC ngày 18 tháng 7 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu đã truy tố Lương Hữu B và Lê Thành N về tội: “Buôn bán hàng cấm” theo qui định tại điểm b Khoản 1 Điều 190 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Lương Hữu B và Lê Thành N đã khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lương Hữu B và Lê Thành N phạm tội: “Buôn bán hàng cấm” quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 190 của Bộ luật hình sự. Đề nghị: áp dụng điểm b Khoản 1 Điều 190; điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm a Khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lương Hữu B từ 150.000.000đồng đến 300.000.000đồng; áp dụng điểm b Khoản 1 Điều 190; điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm a Khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Thành N từ 100.000.000đồng đến 200.000.000đồng; đồng thời áp dụng Điều 46 và 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị xử lý vật chứng trong vụ án theo quy định pháp luật.

Bị cáo Lương Hữu B và Lê Thành N thống nhất với luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận, bào chữa.

Bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo B, N xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bến Cầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và áp dụng điều luật: Ngày 05/6/2019, Lương Hữu B mua 2.600 bao thuốc lá điếu ngoại nhập (gồm 2.400 bao thuốc lá điếu hiệu Jet và 200 bao thuốc lá điếu hiệu Hero) tại Campuchia cùng phụ xe Lê Thành N cất giấu đem về Việt Nam bán kiếm lời, khu vực ấp Thuận Tây, xã Lợi Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, Chi cục Hải quan Cửa khẩu Mộc Bài phối hợp Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Mộc Bài tiến hành kiểm tra phát hiện và lập biên bản quả tang, tạm giữ tang vật xử lý theo quy định. Do đó hành vi của Lương Hữu B và Lê Thành N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự như luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

Hành vi mua thuốc lá điếu của B trước ngày bắt quả tang, do không thu giữ được vật chứng nên không đủ cơ sở xử lý;

Hành vi của người tên Nhân mua thuốc lá điếu của B không rõ lai lịch nên chưa làm việc được, khi nào làm việc được xử lý sau;

Hành vi của Nguyễn Trí Th điều động B giao hàng sang Campuchia nhưng không biết việc B và N mua bán thuốc lá điếu nên không xử lý.

[3] Về tính chất vụ án: Vụ án mang tính chất nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo B và N là nguy hiểm cho xã hội, bản thân của các bị cáo là người đã thành niên, các bị cáo biết mặt hàng thuốc lá ngoại là Nhà nước cấm kinh doanh, nhưng các bị cáo cố ý thực hiện hành vi mua thuốc lá ngoại từ Campuchia về Việt Nam bán để thu lợi bất chính thì bị bắt quả tang. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước nên cần có hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo, để giáo dục răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về tính chất mức độ phạm tội của từng bị cáo thì thấy rằng: Hành vi của các bị cáo trong vụ án này không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể nên đây là trường hợp đồng phạm giản đơn, không có tính tổ chức. Trong vụ án này bị cáo B là người thực hiện hành vi mua bán thuốc lá ngoại là mặt hàng Nhà nước cấm nên phải chịu trách nhiệm hình sự cao nhất trong vụ án này. Bị cáo N là người B thuê làm phụ xe, là người giúp sức cho bị cáo B nên chịu trách nhiệm hình sự mức thấp nhất trong vụ án.

[5] Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

+ Tình tiết tăng nặng: các bị cáo B và N không phải chịu tình tiết tăng nặng nào được quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

+ Tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải, được qui định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Áp dụng hình phạt: Xét đề nghị của kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề nghị áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo B và bị cáo N là có căn cứ . Bởi lẽ, bị cáo B và bị cáo N chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo phạm tội là loại tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, có tài sản đảm bảo, theo chủ trương mở rộng áp dụng hình phạt tiền được nêu tại Nghị quyết số: 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính đối với hầu hết các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy áp dụng hình phạt tiền, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải cũng đủ răn đe, giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội.

[7] Về xử lý vật chứng: Theo biên bản giao nhận, nhận vật chứng ngày 19-7-2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Hội đồng xét xử xét thấy: áp dụng Điều 46 và 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự xử lý như sau:

- Đối với 2.400 (hai nghìn bốn trăm) bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Jet; 200 (hai trăm) bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Hero; 26 (hai mươi sáu) túi nylon màu đen là tang vật phạm tội nên cần phải tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S7 Edge, số IMEI: 355083080067728; 355084080067726, màu đen, đã qua sử dụng, đã dùng liên lạc với tên Nhân để mua bán thuốc lá ngoại nên có liên quan đến việc thực hiện tội phạm, tài sản còn giá trị nên tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7, số IMEI: 353236072093530; 353237072093538, màu vàng cát, đã qua sử dụng không liên quan đến việc thực hiện tội phạm nên trả lại cho bị cáo Lê Thành N.

- Đối với 01 (một) hộ chiếu số C6079193 do Cục quản lý xuất nhập cảnh cấp ngày 14/12/2018 mang tên Lương Hữu B là giấy tờ tùy thân cần phải trả lại cho bị cáo B.

- Đối với 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 271471180 cấp ngày 02/11/2017 mang tên Lê Thành N là giấy tờ tùy thân cần phải trả lại cho bị cáo N.

[8] Tiếp tục thực hiện Lệnh phong tỏa tài khoản số: 03/2019/HSST- LPTTK ngày 06/8/2019 đối với tài khoản 5708401003953 của Lương Hữu B, số tiền trong tài khoản bị phong tỏa là 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng) và Lệnh phong tỏa tài khoản số: 04/2019/HSST-LPTTK ngày 06/8/2019 đối với tài khoản 5708401003960 của Lê Thành N, số tiền trong tài khoản bị phong tỏa là 100.000.000đ (Một trăm triệu) đồng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Chi nhánh huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, để đảm bảo thi hành án.

[9] Về án phí: Bị cáo B, N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lương Hữu B và Lê Thành N phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

- Căn cứ điểm b Khoản 1 Điều 190; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 58; điểm a Khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lương Hữu B số tiền:150.000.000đ (một trăm năm mươi triệu) đồng nộp ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ điểm b Khoản 1 Điều 190; điểm s Khoản 1 Điều 51;Điều 58; điểm a Khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Thành N số tiền 100.000.000đ (một trăm triệu) đồng nộp ngân sách Nhà nước.

2.Vật chứng: Áp dụng Điều 46 và 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

-Tịch thu tiêu hủy 2.400 (hai nghìn bốn trăm) bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Jet; 200 (hai trăm) bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Hero; 26 (hai mươi sáu) túi nylon màu đen.

-Tịch thu 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S7 Edge, số IMEI: 355083080067728; 355084080067726, màu đen, đã qua sử dụng của bị cáo B nộp ngân sách Nhà nước.

-Trả lại cho bị cáo N 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7, số IMEI: 353236072093530; 353237072093538, màu vàng cát, đã qua sử dụng.

-Trả lại cho bị cáo B 01 (một) hộ chiếu số C6079193 do Cục quản lý xuất nhập cảnh cấp ngày 14/12/2018.

-Trả lại cho bị cáo N 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 271471180 do Công an tỉnh Đồng Nai cấp ngày 02/11/2017.

(Theo biên bản giao nhận, nhận vật chứng ngày 19-7-2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh).

3. Tiếp tục thực hiện Lệnh phong tỏa tài khoản số: 03/2019/HSST-LPTTK ngày 06/8/2019 đối với tài khoản 5708401003953 của Lương Hữu B, số tiền trong tài khoản bị phong tỏa là 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng) và Lệnh phong tỏa tài khoản số: 04/2019/HSST-LPTTK ngày 06/8/2019 đối với tài khoản 5708401003960 của Lê Thành N, số tiền trong tài khoản bị phong tỏa là 100.000.000đ (Một trăm triệu) đồng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Chi nhánh huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, để đảm bảo thi hành án.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án thì mỗi bị cáo B và bị cáo N phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn) đồng.

5. Về quyền kháng cáo: Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo Thành và bị cáo N biết được quyền kháng cáo theo trình tự thủ tục phúc thẩm lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Báo cho ông Thành và bà Mai biết cóquyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại UBND xã, phường nơi các ông, bà cư trú nơi cư trú.

Trường hợp Bản án này được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 42/2019/HS-ST ngày 14/08/2019 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:42/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;