TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 42/2018/HS-ST NGÀY 18/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
Ngày 18 tháng 9 năm 2018, tại Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 43/2018/TLST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2018/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:
Đặng Công T. Tên gọi khác: không có; Giới tính: Nam; Sinh năm 1991; Nơi sinh và nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông: Đặng Công M, sinh năm 1962; Và bà: Đỗ Thị L, sinh năm 1969; Vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1990; Bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không có; Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 21/01/2018 đến ngày 24/01/2018; Hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1991 “có mặt”
Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng đầu năm 2017, Đặng Công T có nhu cầu mua pháo về sử dụng và bán kiếm lợi nhuận nên T đã lên mạng Internet tìm kiếm người giao bán pháo. T đã liên hệ được với người bán pháo trên mạng, không rõ tên tuổi, địa chỉ đặt mua 04 bánh pháo nổ, 04 bệ pháo giàn loại 36 quả, 100 quả pháo trứng với giá là 2.000.000 đồng. Đến khoảng tháng 3/2017, người bán pháo đã hẹn gặp T đến Quốc lộ 1A thuộc địa phận thị trấn Vôi, huyện L, tỉnh Bắc Giang để nhận pháo. Đúng điểm như đã hẹn ở trên, T điều khiển xe M tô BKS 98B2-460.59 của vợ là Nguyễn Thị T đi một mình đến điểm hẹn để nhận pháo từ người lái xe tải (theo T khai không quen biết người này, không rõ đặc điểm nhận dạng do trời đêm tối). Sau khi nhận số pháo trên, T chở bằng xe M tô mang số pháo về nhà, cất giữ tại trong bếp gia đình mình. Việc T cất giữ số pháo trên vợ T là chị T và người thân trong gia đình T đều không ai biết. Trong quá trình cất giấu số pháo trên, T mang 04 quả pháo trứng ra sử dụng, còn lại 96 quả vẫn cất giữ trong bếp của gia đình.
Đến đầu tháng 01/2018, do nhu cầu cần tiền để sử dụng vào mục đích chi tiêu cá nhân. T tìm hiểu trên mạng Internet, có một người không rõ tên, tuổi, địa chỉ ở đâu liên hệ với T để mua pháo. Sau đó T và người đó đã thống nhất việc mua pháo với số lượng là 04 bánh pháo nổ, 04 bệ pháo giàn, 96 quả pháo trứng đã mua đầu năm 2017, với giá là 3.000.000 đồng. Hai bên thống nhất thời gian, địa điểm giao nhận pháo vào buổi trưa ngày 21/01/2018 tại khu vực thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Khoảng 12 giờ cùng ngày, T lấy số pháo đã cất giấu ở trong bếp cho vào các túi bóng đen và đựng trong một bao tải dứa màu vàng rồi để ở giá phụ, phía trước yên xe M tô biển số 98B2-460.59 đi một mình chở đến điểm hẹn giao pháo. Hồi 12 giờ 10 phút ngày 21/01/2018, khi T vận chuyển pháo nổ đến tỉnh lộ 295 thuộc địa phận thôn Tân Sơn, xã Bảo Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang thì bị Tổ công tác của Công an huyện Lục Nam phối hợp với Công an xã Bảo Sơn kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Vật chứng thu giữ gồm: 01 bao tải dứa màu vàng nghi pháo nổ, tổng 16kg, trong đó: 04 dàn pháo nổ tổng 6,2kg; 04 bộ pháo tổng 5,9kg; 96 quả pháo trứng tổng 3,9kg. Ngoài ra còn thu giữ 01 xe M tô nhãn hiệu HONDA WAVE α, màu trắng BKS 98B2-460.59, 01 đăng ký xe M tô 98B2- 460.59 mang tên Nguyễn Thị T, 01 giấy phép lái xe mang tên Đặng Công T và 01 điện thoại màu trắng, nhãn hiệu OPPO, số IMEI1: 869125025632899- IMEI 2: 869125025632881. Vật chứng có liên quan đến vụ án là pháo nổ Công an huyện Lục Nam đã T hành niêm phong và T hành trưng cầu giám định tại Viện khoa học hình sự thuộc Tổng cục cảnh sát- Bộ Công an đối với số pháo thu giữ. Tại Kết luận giám định số 495/C54-P2, ngày 22/01/2018 của Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát- Bộ Công an, kết luận:
- Các vật hình trụ, vỏ giấy mầu, mỗi đầu mỗi vật đều có gắn dây ngòi được liên kết với nhau thành tràng (04 tràng) đều là pháo nổ. Có chứa thuốc pháo, khi đốt gây ra Tg nổ. Tổng khối lượng là 6,2kg.
- 96 vật hình bóng điện tròn, vỏ ngoài bọc giấy mầu, một đầu mỗi vật có gắn dây ngòi đều là pháo hoa, có chứa thuốc pháo, khi đốt phát ra Tg nổ. Tổng khối lượng là 3,9kg.
- 04 khối hộp, vỏ bằng giấy mầu, bên trong mỗi khối hộp có 36 vật hình trụ, vỏ giấy màu, đầu mỗi vật có dây được liên kết với nhau đều là pháo hoa, có chứa thuốc pháo, khi đốt phát ra Tg nổ. Tổng khối lượng là 5,9kg.
Ngày 24/01/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Đặng Công T về tội “Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm” quy tại Điều 191 Bộ luật hình sự;
Quá trình điều tra, xét thấy chưa có quy định cụ thể về việc giám định loại pháo của số lượng pháo còn lại là 9,8kg (trong tổng số 16kg pháo thu giữ). Ngày 23/3/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam đã ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án, Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án đối với bị can Đặng Công T.
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung Viện khoa học hình sự thuộc Tổng cục cảnh sát Bộ Công an đối với 9,8kg, gồm: 96 vật hình bóng điện tròn, vỏ ngoài bọc giấy mầu, một đầu mỗi vật có gắn dây ngòi đều là pháo hoa, có chứa thuốc pháo, khi đốt phát ra Tg nổ, với tổng khối lượng là 3,9kg; 04 khối hộp, vỏ bằng giấy màu, bên trong mỗi khối hộp có 36 vật hình trụ, vỏ giấy màu, đầu mỗi vật có dây được liên kết với nhau đều là pháo hoa, có chứa thuốc pháo, khi đốt phát ra Tg nổ, tổng khối lượng là 5,9kg.Tại kết luận giám định số 3838/C54-P2 ngày 12/7/2018 của Viện khoa học hình sự thuộc Tổng cục cảnh sát- Bộ Công an, kết luận: Các mẫu vật gửi đến giám định đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo (có chứa thuốc pháo và khi đốt có gây Tg nổ).
Sau khi có quy định cụ thể hướng dẫn về việc giám định và trả lời giám định các loại pháo của Viện khoa học hình sự thuộc Tổng cục Cảnh sát- Bộ Công an. Ngày 02/7/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam ra Quyết định phục hồi điều tra vụ án hình sự và phục hồi điều tra đối với T. Như vậy, kết quả điều tra xác định Đặng Công T có hành vi tàng trữ, vận chuyển trái phép pháp nổ với tổng trọng lượng 16kg pháo.
Tại Cơ quan điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng.
Tại bản cáo trạng số 14/CT- VKSLN ngày 19/3/2018 của VKSND huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang đã truy tố Đặng Công T về tội “ Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm” theo khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo khai: Bị cáo đã có hành vi tàng trữ, vận chuyển 16 kg pháo nổ như nội dung bản cáo trạng nêu là hoàn toàn đúng.
Đại diện VKSND huyện Lục Nam vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố Đặng Công T phạm tội “ Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm”. Áp dụng khoản 1 Điều 191; điểm i,s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS và Điều 65 BLHS. Xử phạt: Đặng Công T từ 06 - 09 tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 12-18 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41; Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS.
Tịch thu tiêu hủy: 01 thùng cát tông chứa pháo nổ dán niêm phong của Viện khoa học hình sự thuộc Tổng cục cảnh sát- Bộ Công an; 01 bao tơ dứa màu vàng;
Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện màu trắng, nhãn hiệu OPPO
Trả lại bị cáo 01 giấy phép lái xe M tô số AK 403454 mang tên Đặng Công T.
Sau khi nghe Kiểm sát viên luận tội và đề xuất quan điểm giải quyết đối với vụ án, bị cáo không tranh luận gì.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lục Nam, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Căn cứ lời khai của bị cáo, của những người liên quan, vật chứng của vụ án và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:
Hồi 12 giờ 10 phút ngày 21/01/2018, tại Tỉnh lộ 295 thuộc địa phận thôn Tân Sơn, xã Bảo Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Khi Đặng Công T, sinh năm 1991ở thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang đang sử dụng xe Mtô, biển kiểm soát 98B2- 460.59 tàng trữ, vận chuyển 16 kilôgam pháo nổ thì bị Tổ công tác của Công an huyện Lục Nam kết hợp cùng Công an xã Bảo Sơn kiểm tra bắt quả tang thu giữ cùng toàn bộ tang vật. Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam ra lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Đặng Công T, quá trình khám xét không thu giữ vật chứng gì có liên quan đến vụ án, T khai mục đích Tàng trữ, vận chuyển số pháo bị thu giữ trên nhằm bán lại để kiếm lời.
Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm” quy định tại khoản 1 Điều 191của BLHS như kết luận của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ đúng người, đúng tội.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế, cụ thể là xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một sô loại hàng cấm, trong đó có pháo nổ các loại. Do vậy cần xử phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải. Bị cáo được chính quyền địa phương xác nhận chấp hành tốt chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân nơi cư trú nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i,s khoản 1, 2 Điều 51 của BLHS.
Từ những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo là người có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nơi cư trú ổn định, cụ thể rõ ràng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1,2 Điều 51 của BLHS nên cho bị cáo hưởng lượng khoan hồng của pháp luật, cho bị cáo cải tạo tại địa phương cũng đủ sức giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội sau này.
Do bị cáo phạm tội có tính chất vụ lợi nên ngoài hình phạt chính cần áp dụng hình phạt bổ sung. Phạt bị cáo một khoản tiền để sung công quỹ Nhà nước.
Đối với các đối tượng bán pháo cho T và mua pháo của T đều không xác định được nhân thân, lai lịch ở đâu nên Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra, làm rõ để xử lý.
Quá trình điều tra xác định 01 xe M tô biển kiểm soát 98B2- 460.59,01 giấy chứng nhận đăng ký xe máy BKS 98B2-460.59 mà T dùng làm phương tiện để vận chuyển hàng cấm (pháo nổ) do T mượn của chị Nguyễn Thị T là vợ của T vì không liên quan đến vụ án. Ngày 12/02/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu sử dụng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
Về vật chứng của vụ án, gồm: 01 thùng cát tông chứa pháo nổ dán niêm phong của Viện khoa học hình sự thuộc Tổng cục cảnh sát- Bộ Công an; 01 bao tơ dứa màu vàng là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.
01 điện màu trắng, nhãn hiệu OPPO bị cáo dùng vào việc phạm tội cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
01giấy phép lái xe M tô số AK 403454 mang tên Đặng Công T không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho bị cáo.
Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Đặng Công T phạm tội “ Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm”.
Căn cứ vào khoản 1, 4 Điều 191; điểm i,s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 65 của BLHS.
Xử phạt: Đặng Công T 01(Một) năm tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 02 (Hai) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UBND xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 của BLHS; Điều 106 của BLTTHS.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 thùng cát tông chứa pháo nổ dán niêm phong của Viện khoa học hình sự thuộc Tổng cục cảnh sát- Bộ Công an; 01 bao tơ dứa màu vàng.
- Trả lại bị cáo 01 giấy phép lái xe M tô số AK 403454 mang tên Đặng Công T.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện màu trắng, nhãn hiệu OPPO.
3. Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 136; Điều 331, Điều 333 của BLTTHS. Điều 21, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 42/2018/HS-ST ngày 18/09/2018 về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Số hiệu: | 42/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/09/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về