Bản án 42/2018/HS-ST ngày 12/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 42/2018/HS-ST NGÀY 12/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 34/2018/TLST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

Ninh Văn T, sinh năm 1988 tại Hải Dương. Nơi cư trú: Thôn N, xã L, huyện K, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ninh Văn L và bà Phạm Thị T; có vợ là Bùi Thị N (đã ly hôn) và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 07 tháng 02 năm 2018, chuyển tạm giam từ ngày 08 tháng 02 năm 2018; có mặt

Người làm chứng:

- Anh Trần Hồng H; vắng mặt

- Anh Vũ Duy K; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 05 giờ 20 phút ngày 07 tháng 02 năm 2018 tại khu vực chợ H, thôn N, xã A, huyện A, thành phố H, tổ công tác Công an xã A phát hiện bắt quả tang Ninh Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 04 túi nilong màu trắng kích thước 1,5x2cm bên trong đều chứa tinh thể màu trắng, 01 bơm kim tiêm và 01 số vật chứng khác như xe mô tô, găng tay len, điện thoại.

Tại kết luận giám định số 88/KLGĐ ngày 08 tháng 02 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận “tinh thể màu trắng chứa trong 04 túi nilong màu trắng đã thu giữ là ma túy loại Methaphetamin, có khối lượng 0.6168gam”.

Tại Cáo trạng số 35/CT – VKS ngày 16 tháng 5 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A truy tố bị cáo Ninh Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại Cơ quan Điều tra và tại phiên toà, bị cáo Ninh Văn T khai nhận: Khoảng 02 giờ ngày 07 tháng 02 năm 2018 bị cáo điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda (không BKS) đi từ nhà đến khu vực chợ H thuộc thôn N, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng. Sau khi gửi xe tại bãi trông xe, bị cáo gặp bạn là Vũ Duy K sinh năm 1989, trú tại thôn N, xã L, huyện K, tỉnh Hải Dương. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên bị cáo nhờ K chở xuống khu vực đường tàu T, Quận L, thành phố Hải Phòng nói là đi có việc. Đến nơi, K đứng ngoài đợi còn bị cáo đi bộ vào mua của một người đàn ông không quen biết 04 túi nilong ma túy đá với giá 350.000 đồng, bị cáo giấu ma túy trong chiếc găng tay len đeo ở tay phải rồi ra để K chở về. Về đến chợ H, bị cáo lấy xe mô tô và giắt chiếc găng tay có chứa ma túy vào võng xe. Khi bị cáo đi đến cửa trả vé thì bị tổ công tác công an xã A kiểm tra phát hiện và bắt giữ bị cáo.

Sau phần xét hỏi công khai tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội đối với bị cáo Ninh Văn T. Qua quan điểm phát biểu Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Ninh Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Ninh Văn T từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo Ninh Văn T.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: tịch thu tiêu hủy 01 găng tay len, 01 bơm kim tiêm và số ma túy còn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động màu đỏ nhãn hiệu Masstel, 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda supercup 90 màu xanh trắng không đeo biển kiểm soát.

Khi nói lời nói sau cùng, bị cáo Ninh Văn T đã ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

- Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện A, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện A, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định có tội:

 [2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp vời lời khai của người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu giữ, phù hợp bản kết luận giám định số 88/KLGĐ ngày 08 ngày 02 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ kết luận bị cáo Ninh Văn T đã có hành vi cất giữ bất hợp pháp chất ma túy để sử dụng. Hành vi cất giữ trái phép chất ma túy để sử dụng của bị cáo Ninh Văn T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

- Về tình tiết định khung hình phạt:

 [3] Bị cáo Ninh Văn T đã có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy để sử dụng có trọng lượng 0.6168gam (Methamphetamine) vi phạm điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Điều luật quy định “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm…Methamphetaminne có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam…”

- Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

 [4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý Nhà nước về ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội. Việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, trí lực của con người, mà từ ma tuý đã làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác và là một trong những nguyên nhân làm lan truyền căn bệnh HIV/AIDS, là hiểm hoạ đối với mọi gia đình và xã hội. Về nhân thân bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nghiện chất ma tuý. Do vậy, đối với hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm khắc mới có tác dụng cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

 [5] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải ” theo quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Ninh Văn T không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

 [6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ số ma tuý bị cáo tàng trữ và 01 găng tay len, 01 bơm kim tiêm; 01 điện thoại di động màu đỏ nhãn hiệu Masstel, 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda supercup 90 màu xanh trắng không đeo biển kiểm soát. Xét thấy chiếc điện thoại di động màu đỏ nhãn hiệu Masstel, 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda supercup 90 màu xanh trắng không đeo biển kiểm soát là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo còn số ma tuý là vật cấm lưu hành, 01 găng tay len, 01 bơm kim tiêm không có giá trị nên tịch thu tiêu huỷ.

- Về những vấn đề khác:

 [7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, bị cáo có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ để sung quỹ Nhà nước. Xét bị cáo phạm tội không mang tính chất vụ lợi, hoàn cảnh gia đình khó khăn, do đó miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với Ninh Văn T.

[8] Trong vụ án này có Vũ Duy K là người đi cùng với T do không biết và không tham gia với việc T mua ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý. Còn đối với người đàn ông đã bán ma túy cho T ngày 07 tháng 02 năm 2018, hiện không xác định được lai lịch nên Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ xử lý sau là có căn cứ.

Về án phí: Bị cáo Ninh Văn T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 259, 260 và 326 Bộ luật Tố tụng Hình sự,

Căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 249, Điều 38, điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt: Ninh Văn T 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 07 tháng 02 năm 2018. 

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo Ninh văn T.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Trả lại cho bị cáo Ninh Văn T 01 điện thoại di động màu đỏ nhãn hiệu Masstel, 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda supercup 90 màu xanh trắng không đeo biển kiểm soát. Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì còn lại sau giám định có dấu niêm phong số 1127/PC54 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an thành phố Hải Phòng; 01 găng tay len, 01 bơm kim tiêm.

 (Tình trạng, đặc điểm vật chứng được xác định tại biên bản bàn giao nhận vật chứng ngày 18 tháng 5 năm 2018).

Về án phí: Áp dụng khoản 2, Điều 135 và khoản 2, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; các điều 6, 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Ninh Văn Thao phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 42/2018/HS-ST ngày 12/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:42/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;