Bản án 42/2018/HSST ngày 06/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 42/2018/HSST NGÀY 06/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hải Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 34/2018/HSST ngày 12/02/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2018/HSST-QĐ ngày 22/02/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn T, sinh năm 1993. Đăng ký hộ khẩu: Khu T, xã TL, huyện BG, tỉnh Hải Dương; Chỗ ở: Không cố định; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12. Con ông Phạm Văn T, sinh năm 1967; con bà Phạm Thị T, sinh năm 1971. Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án: không; Tiền sự: Công an tỉnh Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính tại quyết định số 68 ngày 02/3/2017 bằng hình thức phạt số tiền 1.500.000đ về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/01/2018, chuyển tạm giam từ ngày 09/01/2018 đến nay tại Trại tạm giam-Công an tỉnh Hải Dương.

* Nhân thân: Bản án số 02/2008/HSST ngày 19/02/2008 của Tòa án nhân dân huyện BG xử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng về tội Cướp tài sản.(Nộp án phí ngày 28/5/2008).

* Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1961

Cư trú tại: Số 2 đường TB, phường TB, thành phố H, tỉnh Hải Dương.

2. Anh Đinh Trọng T, sinh năm 1989

Cư trú tại: Số 9B/31 ĐM, phường PNL, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Những người làm chứng đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21h30’ngày 06/01/2018 tại trước cửa số nhà 2 TB, phường TB, TP Hải Dương, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an TP H phát hiện bắt quả tang Phạm Văn T cất giấu trái phép trong túi quần bên phải đang mặc 01 gúi nilon màu trắng, kích thước (02 x 02)cm bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng. T khai nhận là ma túy tổng hợp cất giấu để sử dụng. Quá trình bắt giữ có sự chứng kiến của ông Nguyễn Văn P ở Phố C, LS, TM, Hải Dương và anh Đinh Trọng T ở số 9B/31 ĐM, phường PNL, thành phố H. Quá trình điều tra đã làm rõ: Do T bị nghiện chất ma túy nên khoảng 20h00’ ngày 06/01/2018, T đi ra đường NT, thành phố H mua được 01 gói ma túy tổng hợp với số tiền 100.000 đồng của một người đàn ông không rõ họ tên, địa chỉ, cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc rồi đi tìm nơi sử dụng. Khoảng 21h30’ cùng ngày, khi T đi đến trước cửa số nhà 2 TB, Phường TB, thành phố H thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an TP H bắt quả tang. Thu giữ trong túi quần bên phải T đang mặc 01 gói nilon màu trắng, kích thước (02 x 02)cm bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng, trước sự chứng kiến của ông P và anh T.

Tại Kết luận giám định số 113/KLGĐ-PC54 ngày 09 tháng 01 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất tinh thể màu trắng ghi thu của Phạm Văn T, gửi đến giám định có trọng lượng là 0,481 gam là loại Methamphetamine. Methamphetamine nằm trong Danh mục II, STT 67, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Về vật chứng: Đối với 0,400 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định được đựng trong phong bì số 113/KLGĐ - PC54 có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương hiện đang được quản lý tại kho vật chứng của Công an TP H chờ xử lý nghiêm quy định của pháp luật

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Tại Cáo trạng số 46/VKS-HS ngày 09/02/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự (được viết tắt là BLHS).

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;  Xử phạt bị cáo Phạm Văn T từ 18 (Mười tám) đến 21 (Hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 06/01/2018; Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng; Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật hoàn lại sau giám định; Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

1. Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21h30’ ngày 06/01/2018, tại trước cửa số nhà 2 TB, phường TB, thành phố H, Phạm Văn T đang cất giấu trái phép trong người 0,481 gam Methamphetamine để sử dụng thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an TP H phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được ma túy là chất gây nghiện bị Nhà nước cấm lưu hành, có tác hại lớn đến sức khỏe con người và là nguyên nhân gây phát sinh các loại tội phạm khác trong xã hội. Việc bị cáo cất giấu trái phép 0,481 gam Methamphetamine trong người để sử dụng trái phép là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích thỏa mãn cơn nghiện, ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm vào chính sách độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, cần áp dụng một hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt biết tôn trọng và chấp hành pháp luật.

2. Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (được viết tắt là TNHS) của bị cáo thì thấy: Năm 2008 bị cáo bị Tòa án huyện BG xét xử về tội Cướp tài sản, phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 36 tháng (án phí đã nộp ngày 28/5/2008); Ngày 02/3/2017 bị cáo bị Công an tỉnh Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, số tiền phạt 1.500.000đ (bị cáo chưa chấp hành). Bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân nay lại phạm tội, thể hiện ý thức coi thường pháp luật; Về tình tiết tăng nặng TNHS: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng nào; Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo khai báo thành khẩn, đó là tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS. HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có việc làm, không có thu nhập và không tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: 0,400 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định. Xét Methamphetamine là chất cấm lưu hành nên tịch thu cho tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Về án phí: Bị cáo phạm tội nên buộc phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đối với đối tượng đã bán trái phép chất ma túy cho T do T tự khai, T không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người đàn ông này. Cơ quan CSĐT-Công an thành phố H tiếp tục xác minh, khi nào xác minh rõ được nhân thân lai lịch và hành vi vi phạm sẽ xử lý sau.

Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 06/01/2018.

2. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng;

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Tịch thu tiêu hủy mẫu vật hoàn lại sau giám định, được đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong số 113/KLGĐ PC54 của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H ngày 12/2/2018).

4. Về án phíÁp dụng Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14  ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 06/3/2018)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 42/2018/HSST ngày 06/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:42/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;