TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ - THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 42/2017/DS-ST NGÀY 18/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 18 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 98/2017/TLST-DSST ngày 18 tháng 7 năm 2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2017/QĐXXST-DS ngày 31 tháng 8 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2017/QĐST-DS ngày 11 tháng 9 năm 2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP SH. Địa chỉ : 77 T, quận H, TP Hà Nội.Đại diện theo pháp luật ông Nguyễn Văn L - Tổng giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh T . Sinh năm : 1982- chuyên viên xử lý nợ , Trú tại : tổ 50 phường M, quận N, TP ĐN tham gia tố tụng theo các văn bản ủy quyền số 52/UQ- TGDD2 ngày 17/6/2013 và văn bản ủy quyền số 152 ngày 30/6/2017, có mặt.
- Bị đơn : Ông Nguyễn Duy M . Sinh năm : 1972
Nơi cư trú : tổ 67 (K57 /1 L), phường A, quận S, TP Đà Nẵng, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay- đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Minh T trình bày:
Ngày 28/04/2016, ông Nguyễn Duy M và Ngân hàng TMCP SH có ký hợp đồng tín dụng số 295/2016/HĐTDTDH-CN/SHB.120100; theo đó Ngân hàng cho ông M vay: 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng chẵn), mục đích vay để mua xe phục vụ đi lại; thời hạn vay là 60 tháng kể từ ngày giải ngân vốn vay lần đầu tiên. Lãi suất cho vay được thỏa thuận : Lãi suất cho vay trong hạn áp dụng trong 12 tháng đầu tiên kể từ ngày giải ngân: 6,99%/năm. Lãi suất vay trong hạn được điều chỉnh 03 tháng/lần sau 12 tháng kể từ thời điểm giải ngân, mức lãi suất áp dụng cho kỳ điều chỉnh tiếp theo tối thiểu bằng lãi suất huy động kỳ hạn 13 tháng trả lãi sau cao nhất của SHB cộng (+) biên độ tối thiểu theo xếp hạng tín dụng (AAA: 3,5%; AA: 3,7%; A: 4%; BBB trở xuống: 4,3%). Lãi suất quá hạn : 150% lãi suất cho vay. Tài sản bảo đảm cho khoản vay là ông Nguyễn Duy M thế chấp Xe tải cabin kép theo Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 021847, biển số 43C-119.81 do Phòng cảnh sát giao thông CA TP Đà Nẵng cấp ngày 27/04/2016, Nhãn hiệu: MAZDA, Số loại: BT-50, Màu Xanh có số khung 4DF4GW558359; số máy P5AT2182997 đứng tên chủ sở hữu ông Nguyễn Duy M theo hợp đồng thế chấp số 295/2016/HĐTC-CN/SHB.120100 ngày 28/04/2016, được công chứng tại phòng công chứng Trọng Tâm, Tp Đà Nẵng, đăng ký giao dịch bảo đảm tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản tại Đà Nẵng vào ngày 28/04/2016.
Thực hiện hợp đồng, ông Nguyễn Duy M đã rút vốn vay tại Ngân hàng TMCP SH với tổng số tiền là 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng chẵn) thể hiện qua Khế ước nhận nợ số: 01-295/2016/KUNN-CN ngày 29/04/2016. Trong quá trình vay vốn, ông Nguyễn Duy M vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng TMCP SH đã nhiều lần gọi điện để gặp mặt ông M nhằm xử lý khoản nợ quá hạn, tuy nhiên ông M không có thiện chí hợp tác với Ngân hàng để trả nợ. Ngân hàng đã gửi các Thông báo nợ quá hạn, Thông báo về việc tự xử lý tài sản đảm bảo để trả nợ vay, nhưng ông Nguyễn Duy M vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cũng như đảm bảo việc thu hồi vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh, Ngân hàng TMCP SH làm đơn khởi kiện ông Nguyễn Duy M ra Tòa án Nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng để thu hồi nợ và yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Duy M phải trả cho Ngân hàng số tiền 450.419.169đ(trong đó nợ gốc 433.328.000, nợ lãi tạm tính đến ngày 23/6/2017 là 17.091.169đ) và lãi phát sinh kể từ ngày 24/6/2017 cho đến khi thanh toán xong mọi khoản nợ.
Tại phiên tòa hôm nay Ngân hàng TMCP SH thay đổi yêu cầu khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Duy M Minh trả số tiền: 464.213.054đồng (trong đó nợ gốc 433.328.000, nợ lãi tạm tính đến ngày 18/9/2017 là 30.885.054đ).
Trường hợp ông M không trả nợ đề nghị Tòa án phát mãi tài sản thế chấp là xe ô tô biển số 43C-119.81 do Phòng cảnh sát giao thông CA TP Đà Nẵng cấp ngày 27/04/2016, Nhãn hiệu: MAZDA, Số loại: BT-50, Màu Xanh có số khung 4DF4GW558359; số máy P5AT2182997 đứng tên chủ sở hữu là ông Nguyễn Duy M để thu hồi nợ cho ngân hàng.
Yêu cầu Tòa án buộc ông M còn phải tiếp tục trả lãi đối với khoản tiền còn nợ từ ngày 19/9/2017 theo mức lãi suất đã thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng số 295/2016/HĐTDTDH-CN/SHB.120100 ngày 28/4/2016 cho đến khi ông M trả xong nợ vay.
* Đối với bị đơn- ông Nguyễn Duy M từ khi Toà án thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa, ông M không có mặt theo triệu tập của Toà án, không có ý kiến đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải và cũng không tham gia phiên toà nên không có ý kiến thể hiện tại hồ sơ vụ án.
Tại phiên tòa hôm nay, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, TPĐN phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Về nội dung: Xét thấy yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP SH đối với ông Nguyễn Duy M là có cơ sở, yêu cầu về cách tính lãi cũng như việc phát mãi tài sản để thu hồi nợ là phù hợp với quy định của pháp luật nên đề nghị HĐXX xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP SH, buộc ông M phải trả cho Ngân hàng TMCP SH số tiền: 464.213.054đồng (trong đó nợ gốc 433.328.000, nợ lãi tạm tính đến ngày 18/9/2017 là 30.885.054đ) và lãi phát sinh kể từ ngày 19/9/2017 cho đến khi thanh toán xong mọi khoản nợ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, HĐXX nhận định:
[1] Về phần thủ tục: Đơn khởi kiện của Ngân hàng TMCP SH nộp tại tòa án là đúng thủ tục và đúng thẩm quyền được quy định tại khoản 3 điều 26; điểm a khoản 1 điều 35 và điểm a khoản 1 điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Bị đơn- ông Nguyễn Duy M mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 điều 227, điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt ông M .
[2] Về nội dung vụ án:
Ngày 28/04/2016, ông Nguyễn Duy M và Ngân hàng TMCP SH(SHB) có ký hợp đồng tín dụng số 295/2016/HĐTDTDH-CN/SHB.120100; theo đó Ngân hàng cho ông M vay : 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng chẵn), mục đích vay để mua xe phục vụ đi lại; thời hạn vay là 60 tháng kể từ ngày giải ngân vốn vay lần đầu tiên. Lãi suất cho vay được các bên thỏa thuận cụ thể : Lãi suất cho vay trong hạn áp dụng trong 12 tháng đầu tiên kể từ ngày giải ngân: 6,99%/năm. Lãi suất vay trong hạn được điều chỉnh 03 tháng/lần sau 12 tháng kể từ thời điểm giải ngân, mức lãi suất áp dụng cho kỳ điều chỉnh tiếp theo tối thiểu bằng lãi suất huy động kỳ hạn 13 tháng trả lãi sau cao nhất của SHB cộng (+) biên độ tối thiểu theo xếp hạng tín dụng (AAA: 3,5%; AA: 3,7%; A: 4%; BBB trở xuống: 4,3%). Lãi suất quá hạn: 150% lãi suất cho vay. Tài sản bảo đảm cho khoản vay là ông Nguyễn Duy M thế chấp Xe tải cabin kép theo Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 021847, biển số 43C-119.81 do Phòng cảnh sát giao thông CA TP Đà Nẵng cấp ngày 27/04/2016, Nhãn hiệu: MAZDA, Số loại: BT-50, Màu Xanh có số khung 4DF4GW558359; số máy P5AT2182997 đứng tên chủ sở hữu ông Nguyễn Duy M theo hợp đồng thế chấp số 295/2016/HĐTC- CN/SHB.120100 ngày 28/04/2016, được công chứng tại phòng công chứng Trọng Tâm, Tp Đà Nẵng, đăng ký giao dịch bảo đảm tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản tại Đà Nẵng vào ngày 28/04/2016.
Thực hiện hợp đồng, ông Nguyễn Duy M đã rút vốn vay tại Ngân hàng TMCP SH với tổng số tiền là 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng chẵn) thể hiện qua Khế ước nhận nợ số: 01-295/2016/KUNN-CN ngày 29/04/2016 và thực hiện việc trả nợ cho ngân hàng 13lần với số tiền là : 90.171.620đ(trong đó trả gốc 66.672.000đ, trải lãi và phí là 23.499.620đ). Kể từ ngày tháng 3/2017 ông M không thanh toán thêm bất kỳ một khoản tiền nào nữa mặc dù ngân hàng đã nhiều lần nhắc nhở nhưng ông M vẫn chây ì và cố tình trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng nên Ngân hàng đã khởi kiện yêu cầu thu hồi nợ vay trước hạn.
Tại phiên tòa hôm nay, Ngân hàng yêu cầu yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Duy M trả cho Ngân hàng TMCP SH số tiền: 464.213.054đồng (trong đó nợ gốc 433.328.000, nợ lãi tạm tính đến ngày 18/9/2017 là 30.885.054đ).
[3] Hội đồng xét xử xét thấy: Hợp đồng tín dụng 295/2016/HĐTDTDH- CN/SHB.120100 ngày 28/4/2016, được ký kết giữa Ngân hàng TMCP SH với ông Nguyễn Duy M trên cơ sở tự nguyện, không trái pháp luật, đạo đức xã hội, tuân thủ các quy định của pháp luật về nội dung và hình thức nên được thừa nhận và bảo vệ. Các bên tham gia trong giao dịch này có mọi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đã ký kết nói trên.
Quá trình thực hiện hợp đồng, ông Nguyễn Duy M đã không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả gốc và lãi, vi phạm định kỳ trả nợ, vi phạm hợp đồng tín dụng đã ký kết. Phía Ngân hàng đã nhiều lần làm việc để yêu cầu ông M trả nợ nhưng đến nay ông M vẫn không trả được nợ. HĐXX xét thấy ông M đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ, là bên có lỗi trong việc thực hiện các thỏa thuận đã ký kết trong hợp đồng tín dụng. Việc khởi kiện của Ngân hàng TMCP SH yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Duy M phải trả số tiền còn nợ 464.213.054đồng (trong đó nợ gốc 433.328.000, nợ lãi tạm tính đến ngày 18/9/2017 là 30.885.054đ) là phù hợp với khoản 1 điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015 nên cần được chấp nhận.
[4] Việc nguyên đơn yêu cầu về lãi suất chậm thanh toán theo mức lãi suất thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng là phù hợp với quy định tại khoản 2 điều 91 Luật các tổ chức tín dụng nên HĐXX chấp nhận.
Đối với xe tải cabin kép theo Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 021847, biển số 43C-119.81 do Phòng cảnh sát giao thông CA TP Đà Nẵng cấp ngày 27/04/2016, Nhãn hiệu: MAZDA, Số loại: BT-50, Màu Xanh có số khung 4DF4GW558359; số máy P5AT2182997 đứng tên chủ sở hữu ông Nguyễn Duy M là tài sản đảm bảo, việc thế chấp và đăng ký giao dịch đảm bảo để đảm bảo nợ vay là hoàn toàn đúng với quy định của pháp luật nên trong trường hợp ông Nguyễn Duy M không thanh toán được nợ thì xe tải cabin kép theo Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 021847, biển số 43C-119.81 do Phòng cảnh sát giao thông CA TP Đà Nẵng cấp ngày 27/04/2016 sẽ bị xử lý theo điều 299 Bộ luật dân sự để thu hồi nợ cho Ngân hàng TMCP SH .
Đối với ông Nguyễn Duy M mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không tuân thủ sự triệu tập của Tòa án, không tham gia tố tụng và trình bày ý kiến của mình để giải quyết vụ án nên phải chịu hậu quả pháp lý về việc không tuân theo pháp luật tố tụng dân sự.
Chi phí đăng phát thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng Ngân hàng TMCP SH tự nguyện chịu.
[5] Án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ nên bị đơn phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 điều 26; điểm a khoản 1 điều 35; điểm a khoản 1 điều 39; điểm b khoản 2 điều 227, điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 299, khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ khoản 2 điều 91 Luật các tổ chức tín dụng;
Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần SH đối với ông Nguyễn Duy M về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.
Xử: Buộc ông Nguyễn Duy M có trách nhiệm trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần SH một lần số tiền 464.213.054đồng (Bốn trăm sáu mươi bốn triệu hai trăm mười ba ngàn không trăm năm mươi bốn đồng)(trong đó nợ gốc 433.328.000, nợ lãi tạm tính đến ngày 18/9/2017 là 30.885.054đ) ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày 19/9/2017 cho đến khi thanh toán hết mọi khoản nợ, ông Nguyễn Duy M phải tiếp tục trả lãi cho Ngân hàng TMCP SH theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng 295/2016/HĐTDTDH-CN/SHB.120100 ngày 28/4/2016 tương ứng với số tiền nợ gốc và thời gian chưa thanh toán.
Kể từ khi án có hiệu lực pháp luật, Ngân hàng có đơn yêu cầu thi hành án nếu ông Nguyễn Duy M không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì tài sản thế chấp là xe tải cabin kép theo Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 021847, biển số 43C-119.81 do Phòng cảnh sát giao thông CA TP Đà Nẵng cấp ngày 27/04/2016, Nhãn hiệu: MAZDA, Số loại: BT-50, Màu Xanh có số khung 4DF4GW558359; số máy P5AT2182997 đứng tên chủ sở hữu ông Nguyễn Duy M được xử lý theo điều 299 Bộ luật dân sự để đảm bảo thi hành án.
2. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Duy M phải chịu là 22.568.522 đồng(Hai mươi hai triệu năm trăm sáu mươi tám ngàn năm trăm hai mươi hai đồng).
Hoàn trả lại cho Ngân hàng Thương mại cổ phần SH số tiền tạm ứng án phí 11.260.479 đồng theo biên lai thu số 0001831 ngày 17/7/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
Báo cho nguyên đơn biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 18/9/2017. Riêng bị đơn có quyền kháng có trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án niêm yết trích sao bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 42/2017/DS-ST ngày 18/09/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 42/2017/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 18/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về