TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 414/2019/DS-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM
Trong ngày 14, 15 tháng 11 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện F, tỉnh Tiền Giang xét xử công khai vụ án thụ lý số: 254/2019/TLST-DS ngày 10/6/2019 về tranh chấp “Bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 233/2019/QĐXXST-DS ngày 16/10/2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Lê C Quốc A, sinh năm 1997.
Địa chỉ: Ấp D, xã E, huyện F, Tiền Giang.
Đại diện theo ủy quyền: Huỳnh Thị Kim C, sinh năm1965 (có mặt); Địa chỉ: Ấp D, xã E, huyện F, Tiền Giang.
2. Bị đơn: Trần Hữu B, sinh năm 1967 (có mặt); Địa chỉ: Ấp H, xã J, huyện F, Tiền Giang.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị K, sinh năm 1966 (xin vắng); Địa chỉ: Ấp H, xã J, huyện F, Tiền Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai, biên bản hòa giải đại diện ủy quyền của nguyên đơn Lê C Quốc A là bà Huỳnh Thị Kim C trình bày: Vào khoảng 19 giờ 50 phút ngày 25/3/2018 anh Lê C Quốc A có điều khiển xe mô tô 63B4- 409.59 đi trên Đường Tỉnh 877 từ hướng E về hướng Quốc lộ 50 đến đoạn thuộc ấp An Quới, xã J, huyện F, tỉnh Tiền Giang thì xảy ra va chạm với xe mô tô 63K5-0268 do ông Trần Hữu B điều khiển đi theo hướng ngược lại. Hậu quả anh A bị thương gãy xương đùi phải, phẫu thuật, phải theo dõi, điều trị dài hạn (Gãy kín 1/3 trên đùi, xây xát tay và gối/nẹp bột chậu đùi bàn chân tuyến trước).
Hồ sơ được Cảnh sát giao thông Công an huyện thụ lý điều tra giải quyết, xác định lỗi hoàn toàn do ông B. Tuy nhiên, sau 04 lần được mời giải quyết giữa hai bên không thống nhất được mức bồi thường chi phí điều trị thương tật của anh A. Do đó, nay anh A yêu cầu ông Nguyễn Hữu B phải bồi thường thiệt hại cho anh A số tiền 88.127.276 đồng, gồm các chi phí sau: Chi phí điều trị, phẫu thuật:
15.307.276 đồng; Tiền xe đi lại trong những ngày điều trị: 5.820.000đồng; Thu nhập thực tế bị mất của anh A sau khi xảy ra tai nạn: 12 tháng x 5.000.000đồng = 60.000.000đồng; Thu nhập thực tế bị mất của người thân trong thời gian chăm sóc anh A là: 500.000đồng x 4 ngày = 2.000.000đồng; Khoản tiền bù đắp tổn thất tinh thần do sức khỏe bị tổn hại: 5.000.000đồng. Ông B có đưa trước đó 10.000.000đồng, nên yêu cầu bồi thường tiếp 78.127.276 đồng.
Bị đơn ông Trần Hữu B trình bày: Ông thừa nhận có gây tai nạn giao thông cho anh A, lỗi xác định là của ông. Tuy nhiên, mức bồi thường thiệt hại mà phía anh A yêu cầu là quá lớn đối với ông nên ông không đồng ý. Ông chỉ đồng ý bồi thường tiền thuốc, ông có đưa trước phía gia đình anh A 10.000.000 đồng, nên chỉ đồng ý bồi thường thêm 5.000.000 đồng nữa. Ngoài ra, những khoản khác mà phía anh A yêu cầu ông không có khả năng bồi thường vì hiện tại gia đình ông gặp rất nhiều khó khăn, vợ ông bà Nguyễn Thị K hiện đang bị ung thư, ông thì bị bệnh tim nên không có tiền và tài sản để bồi thường theo yêu cầu anh A.
Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Việc tuân thủ pháp luật của thẩm phán: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm xét xử, thẩm phán đã chấp hành đúng các qui định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.
Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.
Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý và tại phiên tòa các đương sự có thực hiện đúng các qui định về quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng.
Về việc giải quyết vụ án: Viện kiểm sát lập luận cho rằng yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở một phần và đề nghị Tòa án ghi nhận sự thỏa thuận giữa ông B và bà C, thống nhất ông B bồi thường cho anh A số tiền thuốc 15.307.276 đồng, ông B đã bồi thường trước 10.000.000 đồng nên còn phải bồi thường thêm 5.307.276 đồng. Riêng đối với các khoản tiền anh A yêu cầu gồm: Thu nhập thực tế bị mất sau khi bị xảy ra tai nạn: 12 tháng x 5.000.000đồng = 60.000.000đồng đề, nghị chấp nhận 06 tháng với mức 5.000.000 đồng/tháng;
Thu nhập thực tế bị mất của người thân trong thời gian chăm sóc anh A là: 500.000đồng x 4 ngày = 2.000.000đồng, đề nghị chấp nhận với mức 300.000 đồng vì mức 500.000 đồng/ngày là cao so với mức lao động phổ thông tại địa phương; Khoản tiền bù đắp tổn thất tinh thần do sức khỏe bị tổn hại:
5.000.000đồng anh A yêu cầu bồi thường là chưa phù hợp mà cần xem xét với mức 2.000.000 đồng. Đối với yêu cầu tiền xe đi lại trong những ngày điều trị:
5.820.000 đồng của anh A, căn cứ vào chứng từ anh A cung cấp, đối chiếu với chỉ định của bác sĩ trong những lần tái khám phù hợp thực tế nên đề nghị Tòa án chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, xem xét toàn diện các chứng cứ, ý kiến trình bày của bà Huỳnh Thị Kim C, ông Trần Hữu B tại phiên tòà; Hội đồng xét xử xét thấy;
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Căn cứ theo yêu cầu khởi kiện của anh Lê C Quốc A yêu cầu ông Trần Hữu B bồi thường thiệt hại về sức khỏe do bị xâm phạm. Do đó, Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp là tranh chấp “bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm” theo qui định tại Điều 590 Bộ luật dân sự; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện F, tỉnh Tiền Giang theo quy định tại Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị K có đơn xin xét xử vắng mặt do đó căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bà K.
[3] Về nội dung tranh chấp: Vào khoảng 19 giờ 50 phút ngày 25/3/2018 anh Lê C Quốc A có điều khiển xe mô tô 63B4-409.59 đi trên Đường Tỉnh 877 từ hướng E về hướng Quốc lộ 50 đến đoạn thuộc ấp An Quới, xã J, huyện F, tỉnh Tiền Giang thì xảy ra va chạm với xe mô tô 63K5-0268 do ông Trần Hữu B điều khiển đi theo hướng ngược lại. Hậu quả, anh A bị thương gãy xương đùi phải, phẫu thuật phải theo dõi, điều trị dài hạn (Gãy kín 1/3 trên đùi, xây xát tay và gối/nẹp bột chậu đùi bàn chân tuyến trước). Hồ sơ được Công an huyện thụ lý điều tra giải quyết. Công an huyện F xác định lỗi gây ra tai nạn giao thông là do ông Trần Hữu B điều khiển xe mô tô Biển số: 63k5 – 0268 đi không đúng phần đường quy định gây tai nạn giao thông; gây tai nạn giao thông không giữ nguyên hiện trường, không có giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực. Do đó, Tại phiên tòa bà Huỳnh Thị Kim C là mẹ ruột anh A và cũng là người đại diện theo ủy quyền của anh A yêu cầu ông Nguyễn Hữu B phải bồi thường thiệt hại cho anh A số tiền 88.127.276 đồng, gồm các chi phí sau: Chi phí điều trị, phẫu thuật: 15.307.276 đồng; Tiền xe đi lại trong những ngày điều trị: 5.820.000đồng; Thu nhập thực tế bị mất sau khi bị xảy ra tai nạn: 12 tháng x 5.000.000đồng = 60.000.000đồng; Thu nhập thực tế bị mất của người thân trong thời gian chăm sóc người bệnh là: 500.000đồng x 4 ngày = 2.000.000đồng; Khoản tiền bù đắp tổn thất tinh thần do sức khỏe anh A bị tổn hại: 5.000.000đồng. Ông B có đưa trước đó 10.000.000đồng nên còn phải bồi thường tiếp 78.127.276 đồng. Ngoài ra, đối với chi phí sửa chữa tài sản bị hư hỏng (xe mô tô 63B4-409.59) phía ông B đã bồi thường xong nên không yêu cầu gì.
Phía ông B thừa nhận có va chạm giao thông với anh A, làm anh A bị chấn thương như anh A khai, lỗi Công an huyện F xác định do ông là đúng. Tuy nhiên, mức bồi thường thiệt hại mà phía gia đình anh A và anh A yêu cầu là quá lớn nên ông không đồng ý. Ông chỉ đồng ý bồi thường tiền thuốc, tiền sửa xe cho anh A, ông có bồi thường trước phía gia đình anh A 10.000.000đồng tiền thuốc và 3.800.000 đồng tiền sửa xe, nên ông đồng ý bồi thường thêm 5.000.000đồng tiền thuốc nữa là xong. Ngoài ra, những khoản khác mà phía anh A yêu cầu ông không có khả năng bồi thường nên không đồng ý bồi thường vì hiện gia đình ông gặp rất nhiều khó khăn.
[4] Xét yêu cầu khởi kiện của anh A là có cơ sở một phần. Bởi lẽ, Vào khoảng 19 giờ 50 phút ngày 25/3/2018 anh Lê C Quốc A có điều khiển xe mô tô 63B4-409.59 đi từ đường tỉnh 877 hướng E về Quốc lộ 50 đến đoạn thuộc ấp An Quới, xã J, huyện F, tỉnh Tiền Giang thì xảy ra va chạm với xe mô tô 63K5- 0268 do ông Trần Hữu B điều khiển đi theo hướng ngược lại. Hậu quả, anh A bị thương gãy xương đùi phải, phẫu thuật phải theo dõi, điều trị dài hạn (Gãy kín 1/3 trên đùi, xây xát tay và gối/nẹp bột chậu đùi bàn chân tuyến trước) Công an huyện F xác định lỗi hoàn toàn thuộc về ông B. Do đó, ông B phải có nghĩa vụ bồi thường toàn bộ các chi phí cho anh A. Tuy nhiên, tại phiên tòa ông B và bà C thống nhất ông B bồi thường cho anh A 15.307.276 đồng, ông B đã bồi thường trước 10.000.000 đồng, nên ông đồng ý bồi thường thêm 5.307.276 đồng nên Tòa án ghi nhận sự thỏa thuận này của đương sự.
[5] Xét yêu cầu của anh A về tiền xe đi lại trong những ngày khám, điều trị: 5.820.000 đồng, Hội đồng xét xử căn cứ vào chứng từ anh A cung cấp, đối chiếu với chỉ định của bác sĩ trong những lần tái khám phù hợp thực tế nên chấp nhận yêu cầu này của anh A, buộc ông B phải trả toàn bộ chi phí tiền xe đi lại theo yêu cầu của anh A là phù hợp.
[6] Xét các khoản tiền anh A yêu cầu gồm: Thu nhập thực tế bị mất sau khi bị xảy ra tai nạn: 12 tháng x 5.000.000đồng = 60.000.000đồng; Thu nhập thực tế bị mất của người thân trong thời gian chăm sóc là: 500.000đồng x 4 ngày = 2.000.000đồng; Khoản tiền bù đắp tổn thất tinh thần do sức khỏe bị tổn hại: 5.000.000đồng anh A yêu cầu bồi thường là cao, chưa phù hợp với thực tế.
Cụ thể đối với yêu cầu của anh A về tiền thu nhập thực tế bị mất sau khi bị tai nạn là 12 tháng, mỗi tháng 5.000.000 đồng là chưa phù hợp với chấn thương anh A đang gánh chịu. Bởi vì, đối với các chấn thương về xương thì thông thường thời gian hồi phục khoảng từ 3 đến 6 tháng, do đó cần xem xét chấp nhận cho anh A nghỉ dưỡng trong thời hạn 6 tháng với số tiền bị mất thu nhập 5.000.000 đồng/tháng là phù hợp; Đối với yêu cầu tiền thu nhập thực tế người thân nuôi bệnh 500.000 đồng/ngày x 04 ngày là chưa phù hợp lao động phổ thông tại địa phương mà cần tính với mức 300.000 đồng/ngày/ 4 ngày nuôi bệnh là 1.200.000 đồng; Đối với yêu cầu về thiệt hại tinh thần là khoản bù đắp tổn thương tinh thần cho anh A nên có xem xét, tuy nhiên anh A yêu cầu bồi thường 5.000.000 đồng là cao mà cần chấp nhận mức 2.000.000 đồng để tạo điều kiện cho anh A dưỡng bệnh là phù hợp với các qui định tại Điều 584, Điều 585, Điều 590 Bộ luật dân sự.
[7] Xét lời khai ông B cho rằng vụ việc tai nạn xảy ra ông có lỗi nhưng do gia đình ông hiện gặp quá nhiều khó khăn, bản thân ông bệnh tim, vợ ông bị ung thư nên không có kinh tế để bồi thường các khoản thiệt hại khác ngoài tiền thuốc là chưa phù qui định tại Điều 585, 590 Bộ luật dân sự mà cần buộc ông B phải có nghĩa vụ bồi thường cho anh A vì lỗi gây ra tai nạn hoàn toàn thuộc về ông B;
[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp nhận định hội đồng xét xử nên chấp nhận toàn bộ;
[9] Về án phí: Do chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nên phía bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo qui định;
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 584, Điều 585, Điều 590, Điều 468 Bộ luật dân sự.
Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử : Chấp nhận 01 phần yêu cầu khởi kiện của anh Lê C Quốc A có đại diện theo ủy quyền là bà Huỳnh Thị Kim C;
Buộc ông Trần Hữu B có trách nhiệm bồi thường các chi phí cho anh Lê C Quốc A gồm: Chi phí điều trị, phẫu thuật: 15.307.276 đồng; Tiền xe đi lại trong những ngày điều trị: 5.820.000đồng; Thu nhập thực tế bị mất sau khi xảy ra tai nạn 30.000.000đồng; Thu nhập thực tế bị mất của người thân trong thời gian chăm sóc anh A là 1.200.000đồng; Khoản tiền bù đắp tổn thất tinh thần do sức khỏe bị tổn hại: 2.000.000đồng. Tổng cộng: 54.327.276 đồng. Ông Trần Hữu B có bồi thường trước cho anh A 10.000.000 đồng nên cấn trừ, nên ông B còn phải bồi thường tiếp 44.327.276 đồng (bốn mươi bốn triệu ba trăm hai mươi bảy nghìn hai trăm bảy mươi sáu đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Án phí: Ông Trần Hữu B phải chịu 2.216.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm;
Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án tuyên vào lúc 15 giờ ngày 15/11/2019 có mặt bà C, ông B.
Bản án 414/2019/DS-ST ngày 15/11/2019 về tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
Số hiệu: | 414/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 15/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về