Bản án 413/2021/KDTM-PT về tranh chấp hợp đồng xây dựng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 413/2021/KDTM-PT NGÀY 28/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG

Trong các ngày 10/3/2021, 07/4/2021, 15/4/2021 và ngày 28/4/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, số 131 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường Bến Thành, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 230/2020/KDTM-PT ngày 28/12/2020 về việc tranh chấp hợp đồng xây dựng.

Do bản án kinh doanh sơ thẩm số 77/2020/KDTM-ST ngày 17/11/2020 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, Quyết định sửa chữa, bổ sung Bản án sơ thẩm số 98/2020/QĐ-SCBSBA ngày 26/11/2020 và Quyết định sửa chữa, bổ sung Bản án sơ thẩm số 106/2020/QĐ-SCBSBA ngày 25/12/2020 bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 220/2021/QĐ-PT ngày 18 tháng 02 năm 2021 và Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 455/2021/QĐ-PT ngày 10 tháng 3 năm 2021, Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 666/2021/QĐ-PT ngày 07 tháng 4 năm 2021, Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 977/2021/QĐ-PT ngày 15 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty TNHH Sản xuất Chế tạo Cơ khí Xây dựng Thương mại Dịch vụ VH Địa chỉ: 155/5A Trịnh Thị Miếng, ấp TĐ, xã TTT, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh Đại diện theo ủy quyền: Ông Quản Đức N (tên khác Quản Thanh T) – Sinh năm 1955

2. Bị đơn: Công ty TNHH Cơ khí Xây dựng TT Địa chỉ: Số 58/5G LVT, Phường X, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Anh T – Sinh năm 1968

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Ông Nguyễn Văn B – Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt tại phiên tòa ngày 10/3/2021, 07/4/2021, 15/4/2021; vắng mặt tại phiên tòa ngày 28/4/2021)

3. Người kháng cáo: Công ty TNHH Cơ khí Xây dựng TT

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm thì sự việc đươc tóm tắt như sau:

Theo đơn khởi kiện ngày 12/3/2018, tại bản tự khai, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Nguyên đơn và bị đơn có ký kết 03 hợp đồng xây dựng, cụ thể:

- Ngày 12/7/2013, ký kết hợp đồng xây dựng số 14/HĐXD 2013/TT-VH, với nội dung: nguyên đơn sản xuất, chế tạo, lắp ráp cột kèo dầm thép và xây dựng mới tại hội trường địa chỉ 135 Hai Bà Trưng, phường Đakao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Tổng giá trị hợp đồng là 3.720.000.000 đồng, thời gian thi công 120 ngày. Nguyên đơn đã hoàn thành công trình, nhưng bị đơn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Để yêu cầu bị đơn thanh toán tiền thi công, nguyên đơn đã gửi văn bản yêu cầu trả nợ ngày 02/7/2014. Tuy nhiên đến ngày xét xử vụ án, bị đơn chưa thanh toán toàn bộ giá trị hợp đồng cho nguyên đơn.

- Ngày 14/8/2013, ký kết hợp đồng xây dựng số 10/HĐXD 2013/VH-TT, với nội dung: nguyên đơn sản xuất, chế tạo, lắp ráp cột kèo dầm thép tại công trình Peper Lunch – 254 Điện Biên Phủ. Tổng giá trị hợp đồng là 742.500.000 đồng, thời gian thi công 21 ngày. Nguyên đơn đã hoàn thành công trình, nhưng bị đơn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Do vậy, nguyên đơn đã nhiều lần trực tiếp ( không lập thành văn bản) yêu cầu thanh toán tiền thi công, nhưng bị đơn không thực hiện.

- Ngày 16/8/2013, ký kết hợp đồng xây dựng số 09/HĐXD 2013/ VH-TT, với nội dung: nguyên đơn xây dựng, lắp ráp bản hiệu và cầu thang sắt tại công trình NYDC –số 09-11-03 Nguyễn Trãi, phường Bến Thành, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Tổng giá trị hợp đồng là 220.000.000 đồng, thời gian thi công 16 ngày. Nguyên đơn đã hoàn thành công trình, nhưng bị đơn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Do vậy, nguyên đơn đã nhiều lần trực tiếp (không lập thành văn bản) yêu cầu thanh toán tiền thi công, nhưng bị đơn không thực hiện.

Như vậy, tổng số nợ phát sinh từ 3 hợp đồng nêu trên là 4.682.000.000 đồng. Do vi phạm nghĩa vụ thanh toán, nên bị đơn phải chịu phạt tiền lãi là: 4.682.000.000 đồng x 1%/tháng x 52 tháng = 2.439.000.000 đồng.

Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải thanh toán tiền nợ gốc và lãi là 7.120.150.000 đồng làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn trình bày: nguyên đơn xác nhận có nhận được bản Báo cáo kiểm định chất lượng công trình xây dựng số 339/BCKĐ-14 ngày 31/7/2014 về việc kiểm định chất lượng và khối lượng kết cấu thép đã xây dựng tại công trình Hội trường địa chỉ 135 Hai Bà Trưng, phường Đakao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyên đơn thừa nhận nội dung của bản kiểm định, các nội dung chưa hoàn thành được nêu là do nguyên đơn muốn gây áp lực để bị đơn thanh toán tiền thi công. Nguyên đơn đã thi công hoàn thành tất cả các nội dung được nêu trong Báo cáo kiểm định.

Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải thanh toán tiền lãi như sau:

Đối với hợp đồng số 14: 3.720.000.000 đồng x 20%/năm x 84 tháng (từ 12/11/2013 đến 12/11/2020) = 5.208.000.000 đồng.

Đối với hợp đồng số 10: 742.500.000 đồng x 20%/năm x 90 tháng (từ 6/9/2013 đến 12/11/2020) = 1.113.750.000 đồng.

Đối với hợp đồng số 09: 220.000.000 đồng x 20%/năm x 90 tháng (từ 3/9/2013 đến 12/11/2020) = 330.000.000 đồng.

Tổng cộng tiền nợ vốn và lãi là: 11.334.250.000 đồng.

Bị đơn trình bày: Bị đơn và nguyên đơn có ký kết hợp đồng xây dựng số 14/HĐXD 2013/TT-VH, với nội dung: nguyên đơn sản xuất, chế tạo, lắp ráp cột kèo dầm thép và xây dựng mới tại hội trường hai – địa chỉ 135 Hai Bà Trưng, phường Đakao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Tổng giá trị hợp đồng là 1.572.947.589 đồng. Tuy nhiên khi thi công, chủ đầu tư yêu cầu thay đổi bản vẽ thiết kế thi công, bỏ phần thi công tầng lửng của công trình nên khối lượng thực tế giảm xuống còn 1.233.737.635 đồng.

Trong quá trình thi công, nguyên đơn thi công chậm không đảm bảo tiến độ và chất lượng. Bị đơn và chủ đầu tư nhiều lần nhắc nhở và đã có văn bản đình chỉ thi công. Để bảo đảm chất lượng, bị đơn yêu cầu đơn vị độc lập kiểm định chất lượng và khối lượng thi công. Tổng khối lượng nguyên đơn đã thi công là 847.623.106 đồng.

Tại phiên tòa: bị đơn vắng mặt.

Tại bản án số số 77/2020/KDTM-ST ngày 17/11/2020 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn Công ty TNHH sản xuất chế tạo cơ khí xây dựng thương mại dịch vụ VH: Buộc bị đơn Công ty TNHH cơ khí xây dựng TT phải thanh toán tiền thi công và lãi chậm thanh toán phát sinh từ hợp đồng số 14/HĐXD 2013/TT-VH ngày 12/7/2013 là 8.308.000.000 đồng ( tám tỷ ba trăm lẻ tám triệu đồng).

2. Không chấp yêu cầu của nguyên đơn Công ty TNHH sản xuất chế tạo cơ khí xây dựng thương mại dịch vụ VH về việc yêu cầu Công ty TNHH cơ khí xây dựng TT thanh toán tiền thi công và tiền lãi chậm thanh toán là 3.026.000.000 đồng (ba tỷ không trăm hai mươi sáu triệu đồng) phát sinh từ hợp đồng xây dựng số 10/HĐXD 2013/VH-TT ngày 14/8/2013 và hợp đồng xây dựng số 9/HĐXD 2013/TT-VH ngày 16/8/2013.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 15/12/2020, bị đơn Công ty TNHH cơ khí xây dựng TT kháng cáo toàn bộ bản án số 77/2020/KDTM-ST ngày 17/11/2020 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh Tại phiên Toà phúc thẩm:

Ông Nguyễn Anh T - đại diện bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hoặc hủy bản án sơ thẩm với lý do:

- Căn cứ biên bản làm việc ngày 07/6/2014, ông Phan Công H – Đại diện theo pháp luật của nguyên đơn xác nhận có nhận chuyển khoản của Công ty TT 900.000.000 đồng và tiền mặt là 337.400.000 đồng. Sau khi cấn trừ tiền Công ty TT mượn Công ty VH và tiền lãi vay tổng cộng 230.000.000 đồng, số tiền mà Công ty TT tạm ứng cho Công ty VH của công trình 135 Hai Bà Trưng, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh là 1.000.700.000 đồng.

- Căn cứ Biên bản xác nhận khối lượng thực tế tại Công trình (không ghi cụ thể ngày, tháng, năm) do ông Phan Công H ký thì khối lượng thực tế nguyên đơn thi công tại công trình 135 Hai Bà Trưng, Quận 1 là 38.535.99kg x 21.500 đồng = 824.610.734 đồng, tiền sơn 600 đồng/kg x 38.353.99 kg = 23.012.392 đồng, tổng cộng 847.623.106 đồng. Như vậy giá trị thực tế Công ty VH thực hiện chỉ có 847.623.106 đồng, Công ty TT đã tạm ứng 1.000.700.000 đồng, nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn thanh toán 3.720.000.000 đồng đối với Hợp đồng số 14/HĐXD 2013/TT-VH ngày 12/7/2013 là không có căn cứ.

- Báo cáo kiểm định chất lượng công trình xây dựng của Công ty Cổ phần kiểm định xây dựng quốc tế (ICCI) là do bị đơn Công ty TT yêu cầu thực hiện. Các sai sót của công trình theo kiến nghị của ICCI thực tế nguyên đơn chưa khắc phục, thực hiện.

Ông Quản Đức N (tên khác Quản Thanh T) – đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xác nhận bị đơn đã tạm ứng cho nguyên đơn 1.000.700.000 đồng, do nguyên đơn và bị đơn ký kết nhiều Hợp đồng khác nhau nên khi nhận chuyển khoản nguyên đơn không biết bị đơn tạm ứng cho công trình nào. Tuy nhiên, căn cứ Báo cáo Kiểm định chất lượng công trình xây dựng thì nguyên đơn đã hoàn thành xong công trình tại 135 Hai Bà Trưng, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, còn một vài chi tiết như thiếu bu lông hoặc bu lông bắt vít không chặt là do nguyên đơn cố tình không thực hiện để bắt bị đơn phải thanh toán tiền thi công. Sau khi có báo cáo kiểm định thì nguyên đơn đã hoàn thành các việc thiếu sót và hiện nay công trình đã được đưa vào sử dụng.

Do bị đơn đã tạm ứng 1.000.700.000 đồng nên nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền 3.720.000.000 đồng - 1.000.700.000 đồng = 2.719.300.000 đồng và lãi suất 20%/tháng tính trên 2.719.300.000 đồng, từ từ 12/11/2013 đến 12/11/2020.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Đề nghị cấp phúc thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì bị đơn đã tạm ứng nhiều hơn giá trị thực tế công trình nguyên đơn đã thi công hoặc hủy bản án sơ thẩm do tại Đơn khởi kiện ngày 22/3/2018, nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán tiền nợ và lãi của 3 hợp đồng thi công là 7.120.150.000 đồng nhưng cấp sơ thẩm chấp nhận số tiền gốc và lãi của Hợp đồng số 14/HĐXD 2013/TT-VH ngày 12/7/2013 là 8.308.000.000 đồng, như vậy cấp sơ thẩm xét xử vượt quá yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu:

Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, thẩm phán thực hiện đúng quy định pháp luật. Và tại phiên tòa, hội đồng xét xử và các đương sự thực hiện đúng theo trình tự quy định của pháp luật.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, y án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng, tranh luận tại phiên tòa và ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Công ty TNHH Sản xuất chế tạo cơ khí xây dựng thương mại dịch vụ VH ủy quyền cho ông Quản Đức N (tên khác Quản Thanh T) theo Giấy ủy quyền ngày 12/3/2018 là phù hợp với Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty TT không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty VH về số tiền nợ Hợp đồng số 14/HĐXD 2013/TT-VH ngày 12/7/2013 và tiền lãi.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn xuất trình các chứng cứ mới như Biên bản xác nhận khối lượng thực tế tại công trình 135 Hai Bà Trưng (không ghi cụ thể ngày, tháng, năm nhưng nguyên đơn và bị đơn đều xác nhận biên bản này có trước Báo cáo Kiểm định chất lượng công trình xây dựng), Biên bản xác nhận khối lượng thực tế đã thi công ngày 07/6/2014, Các phiếu ủy nhiệm chi và Bảng sao kê giao dịch ngày 05/3/2021 của Ngân hàng TMCP Á Châu về nội dung các giao dịch của Công ty TT từ ngày 01/01/2013 đến ngày 31/12/2013 để xác định Công ty TT đã chuyển khoản 900.000.000 đồng và chi 337.400.000 đồng tiền mặt cho Công ty VH. Sau khi cấn trừ tiền Công ty TT mượn Công ty VH và tiền lãi vay tổng cộng 230.000.000 đồng, số tiền mà Công ty TT tạm ứng cho Công ty VH của công trình 135 Hai Bà Trưng, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh là 1.000.700.000 đồng. Tuy nhiên, do chủ đầu tư yêu cầu thay đổi bản vẽ thiết kế thi công, bỏ phần thi công tầng lửng của công trình nên giá trị thực tế công trình nguyên đơn thực hiện chỉ có 847.623.106 đồng theo Biên bản xác nhận khối lượng thực tế tại công trình và Bảng giá mà Công ty VH đưa ra khi ký kết hợp đồng.

Ngược lại, nguyên đơn xác nhận bị đơn đã tạm ứng 1.000.700.000 đồng cho Công trình 135 Hai Bà Trưng, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng căn cứ Báo cáo Kiểm định chất lượng công trình xây dựng thì nguyên đơn đã hoàn thành xong công trình tại 135 Hai Bà Trưng, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, còn một vài chi tiết như thiếu bu lông hoặc bu lông bắt vít không chặt là do nguyên đơn cố tình không thực hiện để bắt bị đơn phải thanh toán tiền thi công. Sau khi có báo cáo kiểm định thì nguyên đơn đã hoàn thành các việc thiếu sót và hiện nay công trình đã được đưa vào sử dụng.

Xét thấy, tại phiên tòa phúc thẩm Công ty TT có xuất trình các chứng cứ nêu trên và các đương sự có lời khai mâu thuẫn với nhau về việc thực hiện công trình 135 Hai Bà Trưng, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh theo Hợp đồng số 14/HĐXD 2013/TT-VH ngày 12/7/2013, về khối lượng công trình, có việc thay đổi bản vẽ bỏ phần thi công tầng lửng hay không và giá trị Hợp đồng thi công mà Công ty VH đã thực hiện.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn cho rằng đã khắc phục các sai sót nêu trong phần kiến nghị, nhưng bị đơn khẳng định nguyên đơn chưa thực hiện, hoàn tất các công việc trong Báo cáo kiểm định kiến nghị. Do vậy, xét thấy cần phải hủy một phần bản án sơ thẩm chuyển về tòa án cấp sơ thẩm để thu thập thêm chứng cứ và cho hai bên đương sự đối chất với nhau để làm rõ khối lượng và giá trị công trình mà Công ty VH đã thực hiện [3] Ngoài ra, đây là vụ án kinh doanh thương mại khi đương sự yêu cầu tính lãi chậm trả và lãi chậm trả trong giai đoạn thi hành án thì phải căn cứ Điều 306 Luật Thương mại để tính lãi mới đúng theo quy định của pháp luật.

[4] Từ nhận định trên, hội đồng xét xử, xét thấy yêu cầu kháng cáo của Công ty TNHH Cơ khí Xây dựng TT là có cơ sở chấp nhận nên hủy một phần bản án sơ thẩm số 77/2020/KDTM-ST ngày 17/11/2020 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh để thu thập thêm chứng cứ về việc tranh chấp Hợp đồng số 14/HĐXD 2013/TT-VH ngày 12/7/2013 giữa Công ty VH và Công ty TT.

[5] Việc hủy án sơ thẩm, do có tình tiết mới phát sinh tại phiên tòa phúc thẩm nên cấp sơ thẩm không có lỗi.

[6] Các nội dung khác, đương sự không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên giữ nguyên án sơ thẩm.

[7] Án phí sơ thẩm về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc Công ty TNHH Cơ khí Xây dựng TT thanh toán cho Công ty TNHH Sản xuất Chế tạo Cơ khí Xây dựng Thương mại Dịch vụ VH tiền nợ gốc và lãi là 8.308.000.000 đồng của Hợp đồng số 14/HĐXD 2013/TT-VH ngày 12/7/2013 sẽ được giải quyết lại.

[8] Về án phí phúc thẩm: Do hủy một phần bản án sơ thẩm nên Công ty TNHH Cơ khí Xây dựng TT không phải chịu án phí phúc thẩm nên được hoàn lại 2.000.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 308; Điều 310; Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy bán thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty TNHH Cơ khí Xây dựng TT .

2. Hủy một phần bản án sơ thẩm số 77/2020/KDTM-ST ngày 17/11/2020 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, giữa: Công ty TNHH Sản xuất Chế tạo Cơ khí Xây dựng Thương mại Dịch vụ VH và bị đơn Công ty TNHH Cơ khí Xây dựng TT về yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Sản xuất Chế tạo Cơ khí Xây dựng Thương mại Dịch vụ VH buộc Công ty TNHH Cơ khí Xây dựng TT thanh toán cho Công ty TNHH Sản xuất Chế tạo Cơ khí Xây dựng Thương mại Dịch vụ VH tiền nợ gốc và lãi là 8.308.000.000 đồng của Hợp đồng số 14/HĐXD 2013/TT-VH ngày 12/7/2013.

3. Những phần khác trong Quyết định của bản án sơ thẩm số 77/2020/KDTM-ST ngày 17/11/2020 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh có hiệu lực pháp luật thi hành.

4. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại theo thủ tục chung.

5 Về án phí - Án phí sơ thẩm về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc Công ty TNHH Cơ khí Xây dựng TT thanh toán cho Công ty TNHH Sản xuất Chế tạo Cơ khí Xây dựng Thương mại Dịch vụ VH tiền nợ gốc và lãi là 8.308.000.000 đồng của Hợp đồng số 14/HĐXD 2013/TT-VH ngày 12/7/2013 sẽ được giải quyết lại.

- Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm:

Công ty TNHH Cơ khí Xây dựng TT không phải chịu, được hoàn lại 2.000.000 (hai triệu) đồng theo biên lai thu số AA/2019/0027658 ngày 16/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 413/2021/KDTM-PT về tranh chấp hợp đồng xây dựng

Số hiệu:413/2021/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;