TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 41/2024/HS-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 29 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân (viết tắt TAND) thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 36/2024/TLST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2024, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2024/TLST-HS ngày 18 tháng 3 năm 2024, đối với bị cáo:
Vũ Ngọc S, sinh năm 1992; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: thôn B, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Vũ Văn S1, đã chết và bà Đặng Thị C, sinh năm 1973; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ là Phạm Thị Huyền T, sinh năm 1993 (đã ly hôn); Có 02 con đều sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/12/2023, chuyển tạm giam từ ngày 22/12/2023 đến nay tại trại tạm giam Công an tỉnh H. (Có mặt) * Người làm chứng: Chị Mai Phương T1, chị Lý Thị H1 (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20h10’ ngày 19/12/2023, tại phòng số 202, nhà nghỉ H2 ở số A Quán T, phường B, thành phố H, tỉnh Hải Dương, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố H kết hợp Công an phường B, thành phố H phát hiện bắt quả tang Vũ Ngọc S có hành vi chuẩn bị địa điểm, dụng cụ và chất ma túy để cùng Mai Phương T1, sinh năm 1990, Nơi thường trú: khu A, phường N, thành phố H, tỉnh Hải Dương sử dụng trái phép chất ma túy. Thu giữ tại vị trí dưới nền nhà ở đầu giường: 01 (một) chai nhựa loại 500ml có nắp được đục 02 lỗ; 01 (một) ống hút nhựa màu trắng; 01 (một) coóng thủy tinh bên trong bám dính chất tinh thể màu trắng đục; 01 (một) bật lửa gas màu trắng. S khai nhận đó là bộ dụng cụ vừa dùng để cùng T1 sử dụng ma túy đá. Quá trình bắt giữ có sự chứng kiến của chị Lý Thị H1, sinh năm 1990, Nơi thường trú: khu dân cư C, phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương, Nơi ở hiện tại: nhà nghỉ H2 ở số A Quán T, phường B, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Quá trình điều tra làm rõ: Bản thân Vũ Ngọc S là người sử dụng ma túy đá. Vào khoảng 22h ngày 18/12/2023, S gặp một người bạn tên Đ (không rõ họ, tuổi, địa chỉ) ở khu vực cầu T, thành phố Hà Nội. Đ cho S một túi ma túy đá và một bộ dụng cụ gồm 01 cóong thủy tinh và một ống hút nhựa màu trắng để sử dụng ma túy. Sau khi được cho ma túy, S đổ túi ma túy đá vào coóng rồi cất giấu trong người để khi cần sẽ mang ra sử dụng. Đến khoảng 19h ngày 19/12/2023, S mang theo bộ dụng cụ có sẵn ma túy đi đến thành phố H chơi thì gặp Mai Phương T1, sinh năm 1990 trú tại khu A, phường N, thành phố H, S rủ T1 cùng sử dụng ma túy. T1 đồng ý. Sau đó, T1 đi cùng S vào nhà nghỉ H2 ở số A Quán T, phường B, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Tại đây, S gặp chị Lý Thị H1, sinh năm 1990 trú tại C, C, C, Hải Dương là lễ tân của nhà nghỉ H2, S hỏi thuê phòng để nghỉ và được chị H1 xếp phòng 202. Vào trong phòng, S bỏ bộ dụng cụ có sẵn ma túy ra rồi châm lửa sử dụng ma túy, rồi S đưa cho T1 bộ dụng cụ để T1 sử dụng. T1 sử dụng 01 khói ma túy. Do nghi ngờ S và T1 sử dụng ma túy trong nhà nghỉ nên chị H1 đã báo cho lực lượng Công an đến kiểm tra. Khoảng 20h10’ cùng ngày khi S và T1 vừa sử dụng hết số ma túy thì bị bắt quả tang, thu giữ vật chứng, có sự chứng kiến của chị Lý Thị H1. Tại các Phiếu kết quả xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể của Vũ Ngọc S và Mai Phương T1 ngày 19/12/2023 đều thể hiện: Dương tính (Trong nước tiểu của Vũ Ngọc S và Mai Phương T1 có chất ma túy), loại Methamphetamine. Tại Kết luận giám định số 29/KL-KTHS ngày 22/12/2023 của Phòng K Công an tỉnh H, kết luận: Chất tinh thể màu trắng bám dính bên trong coóng thủy tinh, được niêm phong trong phong bì, gửi đến giám định, là ma túy loại Methamphetamine. Lượng mẫu bám dính rất nhỏ nên không xác định được khối lượng.
Tại Cáo trạng số 42/CT-VKSTPHD ngày 23/02/2024, Viện kiểm sát nhân dân (viết tắt VKSND) thành phố H truy tố bị cáo Vũ Ngọc Sơn về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật hình sự (viết tắt BLHS).
Tại phiên tòa sơ thẩm:
- Bị cáo khai nhận hành vi như giai đoạn điều tra, truy tố.
- Đại diện VKSND thành phố H giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự. Tuyên bố Vũ Ngọc S phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 03 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2023; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo. Số vật chứng thu giữ là công cụ phạm tội nên tịch thu cho tiêu huỷ. Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, biên bản xét nghiệm nước tiểu, kết luận giám định, phù hợp với lời khai của người làm chứng và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Cho nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20h10’ ngày 19/12/2023, tại phòng số 202 nhà nghỉ H2 ở số A Quán T, phường B, thành phố H, tỉnh Hải Dương, Vũ Ngọc S cung cấp chất ma túy, dụng cụ và địa điểm để S cùng chị Mai Phương T1 sử dụng trái phép chất ma túy thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.
Hành vi cung cấp chất ma tuý, dụng cụ và địa điểm của Vũ Ngọc S để cùng chị Mai Phương T1 sử dụng chất ma túy là hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 255 Bộ luật hình sự. Bị cáo S là những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý nên bị VKSND thành phố Hải Dương truy tố là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[2]. Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt với bị cáo: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Căn cứ tính chất mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo.
[3]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là lao động tự do, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt tiền với bị cáo.
[4]. Về xử lý vật chứng: Mẫu vật hoàn lại sau giám định cùng với chai nhựa, ống hút nhựa, bật lửa ga là dụng cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội. Những đồ vật này không có giá trị sử dụng nên tịch thu cho tiêu huỷ.
[5]. Về tố tụng và vấn đề khác:
- Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án đã thực hiện đều hợp pháp. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về nội dung này.
- Không làm rõ được người đã cho S dụng cụ và chất ma túy nên không có căn cứ xử lý. Đối với chị Lý Thị H1 là người quản lý nhà nghỉ H2 ở số A Quán T, phường B, thành phố H, tỉnh Hải Dương, khi nghi ngờ Vũ Ngọc S và Mai Phương T1 sử dụng trái phép chất ma túy đã báo cho lực lượng Công an biết nên không xem xét xử lý. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Mai Phương T1, Công an thành phố H đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.
[6]. Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1]. Về áp dụng pháp luật:
- Căn cứ khoản 1 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 38, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[2]. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Ngọc S phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”.
[3]. Về hình phạt:
- Xử phạt bị cáo Vũ Ngọc S 27 (Hai mươi bẩy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 19/12/2023.
[4]. Về vật chứng:
Tịch thu cho tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong số 29/KL-KTHS của Phòng K, Công an tỉnh H, bên trong có 01 coóng thủy tinh và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định; 01 chai nhựa loại 500ml có nắp được đục 02 lỗ; 01 ống hút nhựa màu trắng; 01 bật lửa ga màu trắng. (Hiện số vật chứng trên do Chi cục thi hành án dân sự thành phố H đang quản lý; tình trạng, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 29 tháng 02 năm 2024 giữa Công an thành phố H và Chi cục thi hành án dân sự thành phố H).
[5]. Về án phí: Bị cáo Vũ Ngọc S phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
[6]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 29/3/2024)./.
Bản án 41/2024/HS-ST về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 41/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về