Bản án 41/2023/KDTM-PT về tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty 

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 41/2023/KDTM-PT NGÀY 19/05/2023 VỀ TRANH CHẤP GIỮA THÀNH VIÊN CÔNG TY VỚI CÔNG TY

Ngày 19 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại phúc thẩm thụ lý số: 06/2023/TLPT-KDTM ngày 11 tháng 01 năm 2023 về “Tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty”.Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 1288/2022/DS-ST ngày 12 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 811/2023/QĐ-PT ngày 19/5/2023; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Đặng Hoàng H - Sinh 1963 Địa chỉ liên lạc: Số 70 đường Kim Mã T, phường Cống Vị, quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội - Có ông Phạm Văn H - sinh năm 1976 - Đại diện theo Giấy ủy quyền được lập ngày 29/11/2019 tại tại Văn phòng Công chứng Sài Gòn - Địa chỉ liên lạc: Số 252 đường P, Phường 7, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

- Bị đơn: Công ty Cổ phần đầu tư trồng rừng và cây công nghiệp K - Đại diện pháp luật: Ông Dương Hồng A - Chủ tịch Hội đồng quản trị - Địa chỉ trụ sở: Số 456/27 T, phường Tân Quý, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh – Có ông Hồ Đặng L đại diện theo Giấy ủy quyền được lập ngày 23/5/2022 - Địa chỉ: Số 29/31 đường Lê Đức Thọ, phường 7, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Dương Hồng A - bà Phạm Thị Ngọc T Địa chỉ: Số 14/22 đường Đào Duy A, Phường 9, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Ông Nguyễn Cảnh L Địa chỉ: Số 94/9/9 T, Phường 13, quận Tân Bình, TPHCM.

- Ông Phan Doãn N Địa chỉ: Số 243/7 Tô Hiến Thành, Phường 13, Quận 10, TPHCM.

- Ông Võ Văn Tình Địa chỉ: Số 226/3/11 Lê Trọng T, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Ông Nguyễn Cảnh T Địa chỉ: Số 36 T, Phường 13, quận Tân Bình, TPHCM.

- Phòng đăng ký kinh doanh - Sở kế hoạch và đầu tư Tp. Hồ Chí Minh. Địa chỉ: Số 32 Lê Thánh T, phường Bến Nghé, Quận 1, TPHCM.

- Bà Hoàng Ngọc Yến N - Địa chỉ: Số 252 P, Phường 7, Quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh - Có ông Phạm Đức T đại diện theo Giấy ủy quyền được lập ngày 21/6/2022 tại Văn phòng Công chứng Sài Gòn.

- Người kháng cáo: Bị đơn Công ty Cổ phần đầu tư trồng rừng và cây công nghiệp K.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Đại diện ủy quyền của nguyên đơn- ông Phạm Văn H trình bày yêu cầu khởi kiện:

Ông Đặng Hoàng H là cổ đông của Công ty cổ phần đầu tư trồng rừng và cây công nghiệp K (sau đây viết tắt là Công ty K) theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số (4103006542) 0304953029 do Sở kế hoạch và đầu tư TPHCM cấp đăng ký thay đổi lần thứ 2 ngày 01/2/2010. Ông Đặng Hoàng H sở hữu 300.000 cổ phần chiếm tỷ lệ 33,33% vốn điều lệ của công ty. Ngày 21/11/2014, ông Đặng Hoàng H có ký hợp đồng chuyển nhượng cho bà Hoàng Ngọc Yến N 270.027 cổ phần chiếm tỷ lệ 30% vốn điều lệ nhưng khi ông Hải đề nghị Công ty K hoàn tất các thủ tục chuyển nhượng cổ phần cho bà Nhi thì công ty cố tình không thực hiện. Do đó, ông Đặng Hoàng H đã khởi kiện Công ty K và được Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết tại Bản án số 1115/2015/KDTM-ST ngày 30/9/2015.

Theo đó, Bản án số 1115/2015/KDTM-ST đã tuyên như sau: “Công ty K có trách nhiệm xác nhận việc ông Đặng Hoàng H có chuyển nhượng cho bà Hoàng Ngọc Yến N 270.027 cổ phần của ông Hải trong Công ty K chiếm tỷ lệ 30% vốn điều lệ công ty. Công ty K có trách nhiệm lập các thủ tục pháp lý xác nhận bà Nhi là cổ đông của công ty, ghi đúng và đầy đủ các thông tin của bà Nhi vào sổ đăng ký cổ đông công ty. Công ty K thực hiện thông báo việc thay đổi, bổ sung cổ đông trong công ty; Việc chuyển nhượng cổ phần giữa ông Hải và bà Nhi cho các cơ quan có thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật. Các quyết định trên thi hành ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật”. Nhưng từ đó đến nay Công ty K vẫn không thực hiện.

Đến ngày 14/6/2016 Công ty K tổ chức họp Đại hội đồng cổ đông nhưng không mời ông Đặng Hoàng H hoặc bà Hoàng Ngọc Yến N tham dự cuộc họp là vi phạm Điều 114, Điều 137 Luật doanh nghiệp 2014.

Tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông lần này, Công ty K đã ban hành Nghị quyết về việc tăng vốn điều lệ. Sau đó căn cứ vào Nghị quyết này Công ty K đã làm thủ tục xin thay đổi nội dung Giấy đăng ký kinh doanh (về việc tăng vốn điều lệ) và đã được Phòng đăng ký kinh doanh – Sở Kế hoạch & Đầu tư Tp.HCM cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, đăng ký thay đổi lần thứ 3 ngày 22/6/2016 với số vốn điều lệ tăng từ 9.000.000.000 đồng lên 20.000.000.000 đồng. Đồng thời với việc tăng vốn điều lệ, tại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (thay đổi lần thứ 3) này, ông Đặng Hoàng H chỉ còn công ty cập nhật sở hữu 270.000 cổ phần là không đúng. Việc Công ty K tổ chức họp Đại hội và ban hành Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông không tuân thủ đúng quy định pháp luật, kê khai không trung thực, không chính xác nội dung hồ sơ Đăng ký doanh nghiệp để xin thay đổi nội dung Giấy đăng ký kinh doanh là đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của ông Đặng Hoàng H, vi phạm nghiêm trọng đến quyền cổ đông của ông Hải trong các hoạt động của công ty theo luật định.

Mặt khác, từ năm 2017 đến năm 2020 Công ty K cũng không tổ chức họp đại hội đồng cổ đông và mời ông Đặng Hoàng H tham dự; không báo cáo tài chính hằng năm và chia lợi nhuận cho các cổ đông.

Nay ông Đặng Hoàng H có yêu cầu khởi kiện:

- Huỷ Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông và Nghị quyết của đại hội đồng cổ đông ngày 14/6/2016 của Công ty K.

- Huỷ Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay đổi lần thứ 3 ngày 22/6/2016 của Công ty K.

- Yêu cầu Công ty K phải tổ chức họp Đại hội đồng cổ đông để thông qua báo cáo tài chính từ năm 2014 đến năm 2020 (Mục đích là để làm rõ số liệu thu chi trên báo cáo tài chính có phù hợp với quy định của pháp luật).

Đại diện ủy quyền của bị đơn - ông Hồ Đăng Lâu trình bày:

Công ty Cổ phần Đầu Tư Trồng Rừng Và Cây Công Nghiệp K, MSDN: 0304953029 thành lập và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu ngày 27/04/2007. Ngành nghề kinh doanh là trồng rừng, trồng cây công nghiệp, cây cảnh, mua bán, chế biến nông sản,… Công ty có các cổ đông sáng lập sau đây:

(1) Đặng Hoàng H sở hữu 300.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 33,33% vốn điều lệ; (2) Võ Văn Tình sở hữu 300.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 33,33% vốn điều lệ; (3) Dương Hồng A sở hữu 150.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 16,67% vốn điều lệ;

(4) Phạm Thị Ngọc T sở hữu 150.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 16,67% vốn điều lệ.

Ban đầu, ông Hải là một trong những cổ đông sáng lập của Công ty Khoa Tình. Tuy nhiên đến tháng 07/2014, sau khi tham gia cuộc họp của Hội đồng quản trị về việc báo cáo tình hình thực hiện dự án và chi phí trồng cây cao su đã vượt qua vốn điều lệ nên công ty phải tăng vốn điều lệ để tiếp tục thực hiện dự án. Ông Hải không đồng ý với chủ trương này của Công ty, nên sau khi về Hà Nội đã thông báo cho Công ty K là ông Hải xin rút ra và không còn là thành viên Hội đồng quản trị Công ty K nữa. Đến ngày 18/08/2014, ông Hải gửi cho Công ty K một Giấy xác nhận với nội dung “kể từ ngày hôm nay 18/08/2014 tôi rút khỏi chức danh thành viên hội đồng quản trị, được miễn toàn bộ trách nhiệm nghĩa vụ liên quan đến công ty, không nộp các chi phí liên quan đến hoạt động của công ty. Tôi đề nghị bán lại số cổ phần thuộc sở hữu của tôi cho công ty hoặc bán lại cho đối tác khác khi công ty không có nhu cầu mua lại cổ phần.” Ngày 21/11/2014, ông Hải đã chuyển nhượng cho bà Hoàng Ngọc Yến N 270.027 cổ phần chiếm 30% vốn điều lệ công ty theo Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần và Giấy đề nghị chuyển nhượng cổ phần Công ty CP Đầu Tư Trồng Rừng Và Cây Công Nghiệp K được lập cùng ngày. Như vậy ông Hải còn lại 29.973 cổ phần chiếm tỷ lệ 3% vốn điều lệ công ty. Vào thời điểm ông Hải chuyển nhượng cho bà Nhi không hề thông báo cho Công ty biết sự việc trên. Tuy nhiên đến ngày 05/01/2015, ông Đặng Hoàng H khởi kiện Công ty K với các yêu cầu sau:

“1. Yêu cầu Công ty K tổ chức họp Hội đồng quản trị, đại hội đồng cổ đông để bầu lại Hội đồng quản trị (vì đã hết nhiệm kỳ 5 năm), báo cáo tình hình hoạt động, tài chính của các năm vừa qua, lập sổ đăng ký cổ đông và làm thủ tục báo cáo thuế hằng năm theo đúng quy định của pháp luật.

2. Buộc Công ty K xác nhận việc ông (Đặng Hoàng H) có chuyển nhượng cho bà Hoàng Ngọc Yến N 270.027 cổ phần chiếm tỷ lệ 30% vốn điều lệ công ty.

3. Công nhận bà Hoàng Ngọc Yến N là cổ đông của Công ty và hoàn thiện toàn bộ các thủ tục pháp lý, đưa bà Nhi vào sổ cổ đông của Công ty, thông báo cho các cơ quan có thẩm quyền về tỷ lệ cổ phần của bà Nhi có trong công ty theo đúng quy định của pháp luật”.

Vụ án này được Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm ngày 30/09/2015 bằng Bản án số: 1115/2015/KDTM-ST với nội dung quyết định chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn trong đó có nội dung: “2/ Công ty K có trách nhiệm xác nhận việc ông Đặng Hoàng H chuyển nhượng cho bà Hoàng Ngọc Yến N 270.027 cổ phần của ông Đặng Hoàng H trong Công ty Cổ phần Đầu Tư Trồng Rừng Và Cây Công Nghiệp K”.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 14/10/2015 nguyên đơn – ông Hải đã làm đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm số: 1115/2015/KDTM-ST. Tại phiên toà phúc thẩm ngày 10/07/2017 đại diện phía nguyên đơn đã rút lại đơn kháng cáo nên Toà án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số:

26/2017/QĐ-PT.

Đến năm 2018, bà Hoàng Ngọc Yến N (là người nhận chuyển nhượng cổ phần của ông Hải) khởi kiện Công ty K với yêu cầu “Huỷ Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông và Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông ngày 14/06/2016 của Công ty K”. Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm bằng Bản án số 469/2019/KDTM-ST ngày 13/05/2019, quyết định “không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Ngọc Yến N về việc yêu cầu huỷ Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông và Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông ngày 14/06/2016”.

Sau đó bà Hoàng Ngọc Yến N kháng cáo đối với Bản án sơ thẩm số:

469/2019/KDTM-ST. Ngày 15/11/2019, Toà án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành xét xử phúc thẩm và ban hành Bản án số: 75/2019/KDTM-PT. Trong nội dung bản án có phần nhận định của Toà án như sau: “Xét bản chất sự việc thì trường hợp công ty K họp đầy đủ cổ đông đại diện cho 30% vốn góp tham gia phiên họp, nếu nhóm cổ đông này không đồng ý nội dung tăng vốn điều lệ nhưng nhóm cổ đông chiếm 70% vốn điều lệ đồng ý việc tăng vốn thì nghị quyết vẫn được thông qua. Tại phiên toà sơ thẩm đã không triệu tập các đương sự là các cổ đông chiếm 70% vốn điều lệ tham gia tố tụng để họ trình bày ý kiến liên quan là thiếu sót. Tuy vậy tại phiên toà phúc thẩm các đương sự là cổ đông tham gia đại hội có mặt, xin tham gia tố tụng và trình bày ý kiến giữ nguyên quan điểm đã đồng ý khi biểu quyết tại đại hội vào ngày 14/06/2016”. Từ cơ sở đó Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm ra quyết định không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Hoàng Ngọc Yến N, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Mặt khác, vào ngày 14/06/2016 Công ty K tiến hành cuộc họp Đại hội đồng cổ đông. Thành phần tham dự cuộc họp bao gồm:

- Ông Dương Hồng A - sở hữu 180.000 cổ phần chiếm tỷ lệ 20% vốn điều lệ;

- Bà Phạm Thị Ngọc T - sở hữu 180.000 cổ phần chiếm tỷ lệ 20% vốn điều lệ;

- Ông Phan Doãn N - sở hữu 90.000 cổ phần chiếm tỷ lệ 10% vốn điều lệ;

- Ông Nguyễn Cảnh L - sở hữu 90.000 cổ phần chiếm tỷ lệ 10% vốn điều lệ;

- Ông Nguyễn Cảnh T - sở hữu 90.000 cổ phần chiếm tỷ lệ 10% vốn điều lệ;

- Ông Đặng Hoàng H (vắng mặt).

Công ty K tổ chức họp Đại hội đồng cổ đông ngày 14/06/2016 là đúng trình tự, phù hợp với quy định pháp luật, bởi vì:

Thứ nhất, về trình tự tổ chức cuộc họp Đại hội đồng cổ đông ngày 14/06/2016 được diễn ra phù hợp và đáp ứng đủ điều kiện theo quy định tại Điều 141 Luật Doanh nghiệp 2014 Điều 33 - Điều lệ Công ty K có cùng nội dung “Điều kiện tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông - 1. Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết;”. Cụ thể, tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông ngày 14/6/2016 có tổng số cổ đông dự họp đại diện cho 70% tổng số phiếu biểu quyết, như vậy Công ty K không những đáp ứng đủ tỷ lệ dự họp mà còn hơn rất nhiều so với luật định.

Tại đây Đại hội đồng cổ đông đã biểu quyết thông qua các nội dung như: (1) Tăng vốn điều lệ lên 20.000.000.000 đồng (hai mươi tỷ đồng); (2) thay đổi ngành nghề kinh doanh; (3) thay đổi địa chỉ trụ sở công ty. Các nội dung trên được thông qua với tỷ lệ biểu quyết tán thành là 100% trên tổng số phiếu biểu quyết của cổ đông dự họp. Mặc dù không có sự tham gia của ông Đặng Hoàng H, nhưng việc Công ty K tổ chức họp Đại hội đồng cổ đông ngày 14/06/2016 là hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật.

Thứ hai, ông Đặng Hoàng H đã gửi cho Công ty Giấy xác nhận với nội dung “kể từ ngày hôm nay 18/08/2014 tôi rút khỏi chức danh thành viên hội đồng quản trị, được miễn toàn bộ trách nhiệm nghĩa vụ liên quan đến công ty”, như vậy từ trước năm 2016 ông Hải đã thể hiện ý chí thoái thác toàn bộ quyền lợi và trách nhiệm của mình với Công ty K.

Thứ ba, vào thời điểm tổ chức cuộc họp Đại hội đồng cổ đông ngày 14/06/2016 thì ông Hải đã chuyển nhượng cổ phần của mình cho bà Hoàng Ngọc Yến N (vào ngày 21/11/2014 trước đó). Giao dịch này được xác lập bằng Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần và Giấy đề nghị chuyển nhượng cổ phần Công ty CP Đầu Tư Trồng Rừng Và Cây Công Nghiệp K do hai bên ký kết. Ngoài ra, tại Bản án sơ thẩm số: 1115/2015/KDTM-ST ngày 30/9/2015 cũng đã công nhận giao dịch chuyển nhượng cổ phần của hai người này.

Từ đó đủ cơ sở để thấy được trước thời điểm diễn ra cuộc Họp Đại hội đồng cổ đông ngày 14/06/2016 thì ông Đặng Hoàng H đã chấm dứt toàn bộ quyền và nghĩa vụ của mình trong Công ty K. Hơn thế nữa, trước đó ông Hải cũng đã thể hiện ý chí của mình bằng việc thông báo cho Công ty K xin được miễn toàn bộ trách nhiệm nghĩa vụ liên quan tới công ty.

Như vậy Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông ngày 14/06/2016, Công ty K không thông báo cho ông Hải là hoàn toàn phù hợp. Bên cạnh đó, Toà án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã nhận định: “Xét bản chất sự việc thì trường hợp công ty K họp đầy đủ cổ đông đại diện cho 30% vốn góp tham gia phiên họp, nếu nhóm cổ đông này không đồng ý nội dung tăng vốn điều lệ nhưng nhóm cổ đông chiếm 70% vốn điều lệ đồng ý việc tăng vốn thì nghị quyết vẫn được thông qua” nên sự có mặt, ý kiến của ông Hải cũng không làm thay đổi được bản chất của nội dung cuộc họp - Đây được xem là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo Điều 92 - Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 “Những tình tiết, sự kiện sau đây không phải chứng minh:… b) Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật”.

1. Đối với yêu cầu Huỷ biên bản họp Đại hội đồng cổ đông và Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông ngày 14/06/2016 của Công ty K, yêu cầu này của nguyên đơn là không có cơ sở, bởi những lẽ sau:

Như đã trình bày ở trên, lý do Công ty K không mời họp đối với ông Đặng Hoàng H là vì tại thời điểm phiên họp diễn ra ông Hải đã chấm dứt hoàn toàn tư cách cổ đông của mình với Công ty K bằng việc làm Giấy xin được miễn toàn bộ nghĩa vụ, trách nhiệm ngày 18/08/2014 và ký Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần cho bà Nhi vào ngày 21/11/2014.

Hơn thế nữa, Nguyên đơn ông Đặng Hoàng H không đủ điều kiện khởi kiện đối với yêu cầu huỷ Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông và Nghị quyết đại hội đồng cổ đông vì đã vượt quá thời hiệu và không đáp được điều kiện về chủ thể, chi tiết như sau:

Căn cứ Luật Doanh nghiệp 2020 “Điều 151. Yêu cầu hủy bỏ nghị quyết Đại hội đồng cổ đông - Trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được nghị quyết hoặc biên bản họp Đại hội đồng cổ đông hoặc biên bản kết quả kiểm phiếu lấy ý kiến Đại hội đồng cổ đông, cổ đông, nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 115 của Luật này có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ nghị quyết hoặc một phần nội dung nghị quyết Đại hội đồng cổ đông trong các trường hợp sau đây:

Khoản 2 Điều 115. Quyền của cổ đông phổ thông: 2. Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 5% tổng số cổ phần phổ thông trở lên hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn theo quy định tại Điều lệ công ty có quyền sau đây:

Tại Khoản 2 Điều 9 - Điều lệ của Công ty K quy định đối với quyền của cổ đông phổ thông được thực hiện quyền trên phải sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông.

Thứ nhất, đã quá thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu Huỷ biên bản họp Đại hội đồng cổ đông và Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông ngày 14/06/2016 của Công ty K vì: Biên bản họp và Nghị quyết này đã được thông qua từ năm 2016, tuy nhiên cho đến năm 2020 (hơn 4 năm) ông Hải mới bắt đầu khởi kiện nên thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu này đã hết. Việc ông Hải biết được Biên bản họp và Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông từ năm 2016 là đương nhiên, bởi lẽ:

- Thông tin trên ông Hải cũng phải biết thông qua các vụ án tranh chấp giữa bà Hoàng Ngọc Yến N (là người nhận chuyển nhượng cổ phần của ông Hải) với Công ty K từ năm 2018;

- Hơn nữa, nội dung đăng ký thay đổi nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần thứ: 3, ngày 22/06/2016 được đăng công bố công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp mà bất kì ai cũng có thể tiếp cận được;

- Mặt khác, ông Hải đã tham gia khởi kiện Công ty K ở rất nhiều vụ án từ những năm 2015 cho đến năm 2020. Trong các vụ án này Công ty K cũng đã nhiều lần cung cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp - thay đổi lần 3 có vốn điều lệ 20.000.000.000 đồng, mà những tài liệu này đã được Toà án công khai cho các bên tiếp cận từ lúc khởi kiện cho đến thời điểm xét xử. Đây cũng được xem là tình tiết mà ông Hải phải biết mà không phải chứng minh theo điểm a) Khoản 1 Điều 92 - Bộ luật tố tụng dân sự 2015 “Những tình tiết, sự kiện sau đây không phải chứng minh: a) Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Tòa án thừa nhận”.

Như vậy đã vượt quá thời hiệu 90 ngày theo Điều 151-Luật Doanh nghiệp quy định đối với yêu cầu khởi kiện của ông Hải.

Thứ hai, ông Đặng Hoàng H không đáp ứng được điều kiện về chủ thể để khởi kiện Công ty K vì:

Căn cứ Khoản 2 Điều 115, Điều 151 Luật Doanh nghiệp 2020 thì những cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 5% tổng số cổ phần phổ thông trở lên thì mới có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ nghị quyết hoặc một phần nội dung nghị quyết Đại hội đồng cổ đông. Tuy nhiên tại thời điểm phiên Họp đại hội đồng cổ đông ngày 14/6/2016 diễn ra thì ông Đặng Hoàng H đã chuyển nhượng 270.027 cổ phần cho bà Hoàng Ngọc Yến N nên ông Hải chỉ sở hữu số cổ phần chiếm tỷ lệ 3% so với vốn điều lệ. Vào thời điểm ông Hải khởi kiện ngày 05/03/2020, thì ông Hải sở hữu tỷ lệ chỉ còn 1,5% so với vốn điều lệ. Như vậy ông Đặng Hoàng H không có quyền khởi kiện yêu cầu hủy Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông và Nghị quyết đại hội đồng cổ đông của Công ty K.

2. Yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp nội dung đăng ký thay đổi lần 3 ngày 22/6/2016 của Nguyên đơn đã hết thời hiệu khởi kiện, bởi lẽ: Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là quyết định hành chính nên chịu sự điều chỉnh của Luật Tố tụng Hành chính năm 2015. Căn cứ Khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng Hành chính 2015 quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính:

“2. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau: 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc”.

Như đã trình bày ở trên, nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần thứ: 3, ngày 22/06/2016 của Công ty K đã được đăng công bố công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp mà ai cũng có thể tiếp cận được nên ông Hải phải biết được thông tin này. Tuy nhiên tính cho đến thời điểm ông Hải khởi kiện (đã hơn 4 năm kể từ lúc nội dung đăng ký thay đổi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần 3 được công bố trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp). Do đó, căn cứ theo Khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính 2015 thì yêu cầu hủy Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của ông Đặng Hoàng H đã hết thời hiệu khởi kiện.

Qua những gì đã phân tích, căn cứ: Điểm b) Khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và Điều 3 Nghị quyết Số: 04/2017/NQ-HĐTP (hướng dẫn một số quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015); Khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng Hành chính 2015; Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Đủ cơ sở để áp dụng Khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 - Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự:

1. Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây:

e) Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết;

g) Các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này mà Tòa án đã thụ lý;

3. Yêu cầu Công ty K phải tổ chức họp Đại hội đồng cổ đông để thông qua báo cáo tài chính từ năm 2014 đến năm 2020:

Công ty K không đồng ý với yêu cầu này vì Công ty đã hoạt động và thực hiện báo cáo tài chính đúng theo quy định pháp luật.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Ngọc Yến N trình bày:

Ngày 21/11/2014, ông Đặng Hoàng H có ký hợp đồng chuyển nhượng cho bà Hoàng Ngọc Yến N 270.027 cổ phần chiếm tỷ lệ 30% vốn điều lệ nhưng khi ông Hải đề nghị Công ty K hoàn tất các thủ tục chuyển nhượng cổ phần cho bà Nhi thì công ty cố tình không thực hiện. Do đó, ông Đặng Hoàng H đã khởi kiện Công ty K và được Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết tại Bản án số 1115/2015/KDTM-ST ngày 30/9/2015. Tuy nhiên, từ đó đến nay Công ty K vẫn chưa thực hiện xong bản án trên.

Đến ngày 14/6/2016 Công ty K tổ chức họp Đại hội đồng cổ đông nhưng không mời bà Hoàng Ngọc Yến N tham dự cuộc họp là vi phạm Điều 114, Điều 137 Luật doanh nghiệp 2014.

Tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông lần này, Công ty K đã ban hành Nghị quyết về việc tăng vốn điều lệ. Sau đó căn cứ vào Nghị quyết này Công ty K đã làm thủ tục xin thay đổi nội dung Giấy đăng ký kinh doanh (về việc tăng vốn điều lệ) và đã được Phòng đăng ký kinh doanh – Sở Kế hoạch & Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, đăng ký thay đổi lần thứ 3 ngày 22/6/2016 với số vốn điều lệ tăng từ 9.000.000.000 đồng lên 20.000.000.000 đồng. Đồng thời với việc tăng vốn điều lệ, tại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (thay đổi lần thứ 3) này, Công ty K cũng không cập nhật tên của bà Nhi và số cổ phần của bà Nhi đã nhận chuyển nhượng của ông Hải vào công ty là 270.027 cổ phần? Việc Công ty K tổ chức họp Đại hội và ban hành Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông không tuân thủ đúng quy định pháp luật, kê khai không trung thực, không chính xác nội dung hồ sơ Đăng ký doanh nghiệp để xin thay đổi nội dung Giấy đăng ký kinh doanh là đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bà Nhi, vi phạm nghiêm trọng đến quyền cổ đông của bà Nhi trong các hoạt động của công ty theo luật định.

Mặt khác, từ năm 2017 đến năm 2020 Công ty K cũng không tổ chức họp đại hội đồng cổ đông và mời bà Nhi tham dự; không báo cáo tài chính hằng năm và chia lợi nhuận cho các cổ đông.

Nay bà Nhi yêu cầu huỷ Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông và Nghị quyết của đại hội đồng cổ đông ngày 14/6/2016 của Công ty K. Huỷ Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay đổi lần thứ 3 ngày 22/6/2016 của Công ty K. Yêu cầu Công ty K phải tổ chức họp thông qua báo cáo tài chính từ năm 2014 đến năm 2020 theo ông là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn Tình trình bày:

Theo đơn xin vắng mặt ngày 06/5/2022 ông không có ý kiến gì về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và không có ý kiến gì về việc giải quyết vụ án, ông xin vắng mặt trong tất cả các giai đoạn tố tụng của Tòa án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Phòng đăng ký kinh doanh – Sở kế hoạch và đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh trình bày:

Căn cứ theo Văn bản số 8148/ĐKKD-T6 ngày 21/10/2020 của Phòng đăng ký kinh doanh - Sở kế hoạch và đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh thì yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đã được trả lời tại Văn bản số 7865/ĐKKD-T6 ngày 09/10/2020 và Phòng đăng ký kinh doanh – Sở kế hoạch và đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị được vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng tại Tòa án.

Các đương sự khác trong vụ án vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng.

Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 1288/2020/KDTM-ST ngày 12/08/2022, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

- Áp dụng Điều 30, Điều 34, Điều 37, Điều 38, Điều 39, Điều 91, Điều 94, Điều 95, Điều 217, Điều 266, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

- Điều 36, Điều 37, Điều 39, Điều 114, Điều 137 và Điều 147 Luật Doanh nghiệp 2014;

- Căn cứ Thông tư liên tịch số 01/2014/ TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BT ngày 06/01/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp

- Căn cứ Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP ngày 24/9/2020 của Hội đồng Thấm phán Tòa án nhân dân Tối Cao hướng dẫn một số quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ Luật tố tụng dân sự 2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của Đặng Hoàng H về việc yêu cầu hủy Biên bản họp cổ đông ngày 14/6/2016 và yêu cầu Công ty Cổ phần đầu tư trồng rừng và cây công nghiệp K phải tổ chức họp Đại hội đồng cổ đông để thông qua báo cáo tài chính từ năm 2014 đến năm 2020 do không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Hoàng H:

2.1. Huỷ Nghị quyết của đại hội đồng cổ đông ngày 14/6/2016 của Công ty Cổ phần đầu tư trồng rừng và cây công nghiệp K.

2.2. Huỷ Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay đổi lần thứ 3 ngày 22/6/2016 của Công ty Cổ phần đầu tư trồng rừng và cây công nghiệp K.

- Việc thi hành được thực hiện tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

3. Giữ nguyên Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 160/2021/QĐ-BPKCTT ngày 24/11/2021, Quyết định này không bị kháng cáo kháng nghị trong bản án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về phần án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 25/8/2022 bị đơn Công ty Cổ phần đầu tư trồng rừng và cây công nghiệp K làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm yêu cầu huỷ án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát đối với việc giải quyết vụ án:

Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự tham gia tố tụng tại phiên tòa chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ các chứng cứ cho thấy vào thời điểm tháng 6/2016 ông Đặng Hoàng H vẫn còn là cổ đông sáng lập của Công ty Cổ phần đầu tư trồng rừng và cây công nghiệp K, việc Công ty Đại hội cổ đông không triệu tập ông Hải tham dự trong khi ông Hải có tỷ lệ vốn góp 33% là sai. Do đó Nghị quyết đại hội cổ đông của Công ty Cổ phần đầu tư trồng rừng và cây công nghiệp K không hợp pháp trái với điều lệ của Công ty. Đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ kháng cáo của Công ty Cổ phần đầu tư trồng rừng và cây công nghiệp K, giữ y bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ có tại hồ sơ, lời trình bày của các bên đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy việc Toà sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn huỷ Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lần 3 của Công ty Cổ phần đầu tư trồng rừng và cây công nghiệp K là có căn cứ bởi các lẽ sau:

[1] Về thời hiệu khởi kiện Công ty K đặt ra. Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất như nhận định của cấp sơ thẩm nên không phân tích lại.

[2] Tính đến thời điểm Công ty K tổ chức Đại hội Cổ đông ngày 14/6/2016 ông Đặng Hoàng H vẫn là cổ đông của Công ty - thể hiện Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số (4103006542) 0304953029 do Sở kế hoạch và đầu tư TPHCM cấp đăng ký thay đổi lần thứ 2 ngày 01/2/2010. Ông Đặng Hoàng H sở hữu 300.000 cổ phần chiếm tỷ lệ 33,33% vốn điều lệ của công ty. Ngày 21/11/2014, ông Đặng Hoàng H có ký hợp đồng chuyển nhượng cho bà Hoàng Ngọc Yến N 270.027 cổ phần chiếm tỷ lệ 30% vốn điều lệ nhưng khi ông Hải đề nghị Công ty K hoàn tất các thủ tục chuyển nhượng cổ phần cho bà Nhi thì công ty cố tình không thực hiện. Do đó, ông Đặng Hoàng H đã khởi kiện Công ty K và được Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết tại Bản án số 1115/2015/KDTM-ST ngày 30/9/2015. Theo đó, bản án số 1115/2015/KDTM-ST đã tuyên như sau: “Công ty K có trách nhiệm xác nhận việc ông Đặng Hoàng H có chuyển nhượng cho bà Hoàng Ngọc Yến N 270.027 cổ phần của ông Hải trong Công ty K chiếm tỷ lệ 30% vốn điều lệ công ty. Công ty K có trách nhiệm lập các thủ tục pháp lý xác nhận bà Nhi là cổ đông của công ty, ghi đúng và đầy đủ các thông tin của bà Nhi vào sổ đăng ký cổ đông công ty. Công ty K thực hiện thông báo việc thay đổi, bổ sung cổ đông trong công ty; Việc chuyển nhượng cổ phần giữa ông Hải và bà Nhi cho các cơ quan có thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật. Các quyết định trên thi hành ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật”. Đến ngày 14/6/2016 Công ty K tổ chức họp Đại hội đồng cổ đông nhưng không mời ông Đặng Hoàng H hoặc bà Hoàng Ngọc Yến N tham dự cuộc họp là vi phạm Điều 114, Điều 137 Luật Doanh nghiệp 2014.

[3] Do Nghị quyết đại hội cổ đông ngày 14/6/2016 không hợp lệ, trái với Điều lệ hoạt động của Công ty K nên Nghị quyết trên không phát sinh hiệu lực. Công ty K căn cứ Nghị quyết đại hội cổ đông ngày 14/6/2016 để xin thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh lần 3 là không hợp pháp. Việc Sở Kế hoạch và đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay đổi lần 3 ngày 22/6/2016 cho Công ty K cần phải được huỷ bỏ để Công ty tiến hành họp Đại hội cổ đông và đăng ký đúng pháp luật.

Từ những phân tích trên có căn cứ không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty K.

[5] Do kháng cáo không được chấp nhận nên Công ty K phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định pháp luật.

[6] Các nội dung khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty cổ phần đầu tư trồng rừng và cây Công nghiệp K; Giữ y Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 1288/2022/DS-ST ngày 12/08/2022 của Tòa án nhân Thành phố Hồ Chí Minh.

Áp dụng Thông tư liên tịch số 01/2014/ TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BT ngày 06/01/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP ngày 24/9/2020 của Hội đồng Thấm phán Tòa án nhân dân Tối Cao hướng dẫn một số quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ Luật tố tụng dân sự 2015;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của Đặng Hoàng H về việc yêu cầu hủy Biên bản họp cổ đông ngày 14/6/2016 và yêu cầu Công ty Cổ phần đầu tư trồng rừng và cây công nghiệp K phải tổ chức họp Đại hội đồng cổ đông để thông qua báo cáo tài chính từ năm 2014 đến năm 2020 do không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Hoàng H:

2.1. Huỷ Nghị quyết của đại hội đồng cổ đông ngày 14/6/2016 của Công ty Cổ phần đầu tư trồng rừng và cây công nghiệp K.

2.2. Huỷ Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay đổi lần thứ 3 ngày 22/6/2016 của Công ty Cổ phần đầu tư trồng rừng và cây công nghiệp K.

- Việc thi hành được thực hiện tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

3. Giữ nguyên Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 160/2021/QĐ-BPKCTT ngày 24/11/2021, Quyết định này không bị kháng cáo kháng nghị trong bản án.

- Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Công ty cổ phần đầu tư trồng rừng và cây Công nghiệp K phải chịu 2.000.000đ án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm. Khấu trừ số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm Công ty cổ phần đầu tư trồng rừng và cây Công nghiệp K đã nộp theo biên lai thu số 0003063 ngày 28/9/2022 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. (Công ty đã nộp xong) Các nội dung khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 02 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1276
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 41/2023/KDTM-PT về tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty 

Số hiệu:41/2023/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 19/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;