Bản án 41/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 41/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 15 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 637/2020/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 226/2020/QĐXX-ST ngày 10 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 150/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1974 (có mặt) Địa chỉ: ấp LT, xã LA, huyện CT, Tiền Giang

2/ Bị đơn: Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm 1978 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp LT, xã LA, huyện CT, Tiền Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 21/7/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Nguyễn Hoàng A trình bày:

Anh và chị T cưới nhau vào năm 1998, có đăng ký kết hôn vào năm 2005 tại UBND xã Nhơn Thạnh Trung, TP Tân An, tỉnh Long An. Sau cưới anh chị chung sống rất hạnh phúc, đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng ý kiến và quan điểm sống. Vợ chồng sống chung nhà nhưng mạnh ai người nấy sống, không còn quan tâm đến nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn và đã ly thân khoảng 4 năm nay. Vợ chồng ít nói chuyện, trao đổi với nhau ngoài những việc liên quan đến con. Gia đình hai bên cũng đã khuyên bảo nhiều lần, vợ chồng cũng nhiều lần trao đổi nhau về vấn đề này nhưng không có kết quả. Hiện tình cảm vợ chồng đã hết, hôn nhân không thể hàn gắn và cũng không thể kéo dài nên anh yêu cầu được ly hôn với chị T.

Về con chung: có 03 con chung tên Nguyễn Hoàng Tố P, sinh ngày 26/6/1999 đã trưởng thành, Nguyễn Hoàng Nhật L, sinh ngày 18/12/2002 và Nguyễn Hoàng Tố M, sinh ngày 17/7/2004. Anh đồng ý để chị T tiếp tục nuôi dưỡng cháu L và cháu M, anh không cấp dưỡng.

Về tài sản, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết Chị Nguyễn Thị Hồng T đã được tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cũng như các văn bản tố tụng khác nhưng không có văn bản nêu ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của anh A.

Tại phiên tòa, anh A vẫn giữ yêu cầu xin ly hôn, nuôi con như đã trình bày.

Chị T vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng; đối với đương sự: nguyên đơn thực hiện đúng, bị đơn thực hiện chưa đúng pháp luật tố tụng dân sự.

Phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho anh A được ly hôn với chị T. Về con chung, giao cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng con chung chưa trưởng thành là Nguyễn Hoàng Tố M, sinh ngày 17/7/2004, anh A không cấp dưỡng nuôi con; tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Hồng T được triệu tập dự phiên tòa hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Hoàng A và chị Nguyễn Thị Hồng T cưới nhau vào năm 1998, có đăng ký kết hôn vào ngày 19/8/2005 tại UBND xã Nhơn Thạnh Trung, thị xã Tân An, tỉnh Long An (nay là Thành phố Tân An, tỉnh Long An) và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 68/2005, như vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Theo anh A trình bày tại phiên tòa thì vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do không thống nhất ý kiến và quan điểm sống. Vợ chồng sống chung nhà nhưng không quan tâm nhau, mạnh ai người nấy sống, vợ chồng chỉ trao đổi những gì liên quan đến con. Gia đình hai bên cũng khuyên bảo, vợ chồng cũng nhiều lần trao đổi nhưng đều không có kết quả. Vợ chồng đã sống ly thân khoảng 04 năm nay. Hiện nay tình cảm vợ chồng đã hết, hôn nhân không thể hàn gắn cũng không thể kéo dài nên anh yêu cầu được ly hôn.

Xét thấy, anh A xin ly hôn nhưng chị T không có văn bản nêu ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của anh A dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần. Tại phiên tòa hôm nay anh A vẫn cương quyết xin được ly hôn, chị T không đến Tòa án và vắng mặt không lý do điều này thể hiện chị T không có ý chí mong muốn tình cảm vợ chồng hàn gắn mà để mặc cho anh A quyết định.

Xét, về tình nghĩa vợ chồng thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau và sống chung với nhau nhưng hiện giữa anh A và chị T không còn tình nghĩa vợ chồng, hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó nay anh A xin ly hôn với chị T là có cơ sở, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: anh A và chị T có 03 con chung tên Nguyễn Hoàng Tố P, sinh ngày 26/6/1999 đã trưởng thành, Nguyễn Hoàng Nhật L, sinh ngày 18/12/2002 và Nguyễn Hoàng Tố M, sinh ngày 17/7/2004. Anh A đồng ý để chị T tiếp tục nuôi dưỡng cháu L và cháu M.

Xét ý kiến của anh A thấy rằng cháu cháu L đến nay đã trên 18 tuổi nên việc nuôi dưỡng không đặt ra khi cha mẹ ly hôn. Đối với cháu M đang sinh sống ổn định với chị T kể từ ngày anh chị mâu thuẫn và sống ly thân nhau, cháu cũng có nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ. Chị T cũng không có ý kiến phản đối gì đối với ý kiến của anh A về nuôi con chung. Do đó để ổn định về mặt tâm sinh lý cũng như nơi sinh sống của con, theo nguyện vọng của con, Hội đồng xét xử nghĩ cần tiếp tục giao cháu M cho chị T nuôi dưỡng.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: anh A nêu ý kiến không cấp dưỡng nuôi con, chị T không có ý kiến gì nên Hội đồng xét xử chưa xem xét.

[5] Về tài sản và nợ chung: anh A trình bày không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Anh A phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Xét ý kiến và đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát đúng pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 147; điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Nguyễn Hoàng A được ly hôn với chị Nguyễn Thị Hồng T.

2. Về con chung: có 03 con chung tên Nguyễn Hoàng Tố P, sinh ngày 26/6/1999 đã trưởng thành, Nguyễn Hoàng Nhật L, sinh ngày 18/12/2002 đã trưởng thành và Nguyễn Hoàng Tố M, sinh ngày 17/7/2004. Giao chị Nguyễn Thị Hồng T tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Hoàng Tố M, sinh ngày 17/7/2004. Anh Nguyễn Hoàng A có quyền, nghĩa vụ tới lui thăm, chăm sóc con chung mà không ai có quyền cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: anh Nguyễn Hoàng A không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Nguyễn Thị Hồng T chưa yêu cầu.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Hoàng A chịu là 300.000đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng tại biên lai số 0003281 ngày 09/10/2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xem như đã nộp xong án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Hoàng A có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Nguyễn Thị Hồng T có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 41/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:41/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;