Bản án 41/2021/HNGĐ-ST ngày 02/03/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG HỒ, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 41/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 02 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Hồ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 402/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020 về việc "tranh chấp ly hôn, nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tú A, sinh năm 1985 Địa chỉ: số 170B ấp A, xã B, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long

- Bị đơn: Anh Bùi Văn X, sinh năm 1983 Địa chỉ: số 170B ấp A, xã B, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 03/10/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tú A trình bày: Chị và anh X qua quen biết tiến đến hôn nhân có đăng ký kết hôn ngày 26/10/2004 tại Ủy ban nhân dân xã b, huyện Long Hồ. Quá trình chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau, anh X không chăm lo cuộc sống gia đình. Chị với anh X nhiều lần tìm cách giải quyết khắc phục mâu thuẩn nhưng không có kết quả. Chị với anh X không còn sống chung với nhau từ năm 2018 đến nay. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh X Về con chung: có 02 con chung tên Bùi Thanh D, sinh ngày 10/6/2005 và Bùi Thanh S, sinh ngày 26/11/2011. Khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung, không yêu cầu anh X cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Chị cam kết không có nợ chung.

- Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải đúng theo trình tự thủ tục tố tụng nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do dù đã được Tòa án tống đạt thủ tục tố tụng hợp lệ theo quy định của pháp luật và cũng không gửi bản khai ý kiến cho tòa án * Tại phiên toà hôm nay:

- Nguyên đơn chị Nguễn Thị Tú A giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Đối với hai con chung Chị tôn trọng ý kiến của hai cháu vì hiện tại hai cháu đã lớn vẫn tới lui giữa Chị với anh X. Trường hợp hai cháu sống với Chị thì chị không yêu cầu anh X cấp dưỡng nuôi con và ngược lại. Ngoài ra không cung cấp chứng cứ gì thêm.

- Bị đơn anh Bùi Văn X vắng mặt không lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: tại phiên tòa hôm nay anh Bùi Văn X vắng mặt không lý do mặc dù đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 xét xử vắng mặt đối với anh X.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị A và anh X tiến đến hôn nhân hợp pháp, có đăng ký kết hôn, phù hợp quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.

Xét yêu cầu ly hôn của chị A: Tại Điều 19 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc; giúp đở nhau; cùng nhau chia sẽ, thực hiện các công việc gia đình”. Chị và anh X không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau cùng chia sẽ công việc gia đình do anh chị không còn sống chung với nhau từ năm 2018 đến nay. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân của chị và anh X đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Tại phiên tòa hôm nay chị A vẫn giữ yêu cầu ly hôn với anh X, phía anh X vắng mặt không lý do nên phải chịu hậu quả pháp lý đối với việc vắng mặt trên. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị A là có cơ sở.

[3] Về con chung: có hai con chung là Bùi Thanh D, sinh ngày 10/6/2005 và Bùi Thanh S, sinh ngày 26/11/2011. Theo lời trình bày của chị A thì hiện nay mặc dù hai cháu đang sống cùng với anh X nhưng vẫn thường xuyên đến thăm Chị. Xét các bản tự khai cùng ngày 11/12/2020 của cháu D và cháu S thì nguyện vọng của hai cháu muốn sống cùng với chị A nên Hội đồng xét xử giao hai con chung là cháu D và cháu S cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng là có cơ sở. Về cấp dưỡng nuôi con: chị A không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản chung: không đặt ra giải quyết; về nợ chung: đương sự khai không có nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: chị Nguyễn Thị Tú A phải chịu án phí sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật, có trừ đi tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Áp dụng các Điều 53, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Áp dụng khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Tú A và anh Bùi Văn X 2. Về con chung: giao hai con chung là cháu Bùi Thanh D, sinh ngày 10/6/2005 và Bùi Thanh S, sinh ngày 26/11/2011cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: chị A không yêu cầu anh X cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra xem xét Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con. Ngược lại người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con 3. Về tài sản chung: không đặt ra giải quyết; về nợ chung: đương sự khai không có nên không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị Tú A nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng), tiền án phí sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0006080 ngày 07/10/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 41/2021/HNGĐ-ST ngày 02/03/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:41/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;