TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÀU BÀNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 41/2020/HS-ST NGÀY 22/09/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 46/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:
Hoàng Văn H, sinh năm 1976 tại Thanh Hóa; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ 9, ấp C, xã L, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: thợ cửa sắt; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn Lơ (đã chết) và bà Phạm Thị Hân; có vợ là Lê Thị Nguyệt và 03 con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án: ngày 27 tháng 3 năm 2003, bị Tòa án nhân dân quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa chấp hành các quyết định khác của Bản án (ngày 11 tháng 8 năm 2020, bị cáo mới thi hành xong phần quyết định còn lại của bản án); tiền sự: không; bị bắt tạm giam từ ngày 26 tháng 4 năm 2020 cho đến ngày 05 tháng 5 năm 2020, áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 06 tháng 5 năm 2020 đến nay, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Bà Lê Thị Nguyệt, sinh năm 1982; nơi cư trú: tổ 9, ấp c, xã L, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương, có mặt.
2. Bà Nguyễn Ngọc Bích, sinh năm 1972; nơi cư trú: tổ 3, ấp C, xã L, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương, vắng mặt (có đơn xin vắng mặt).
Người làm chứng:
1. Ông Lữ Giang Hồng, sinh năm 1986, vắng mặt.
2. Ông Lò Văn Thắng, sinh năm 1990, vắng mặt.
3. Ông Nguyễn Văn Toàn, sinh năm 1975, vắng mặt.
4. Ông Tô Văn Phú, sinh năm 1994, vắng mặt.
5. Ông Phan Văn Tính, sinh năm 1988, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hoàng Văn H là đối tượng nghiện ma túy. Từ tháng 3 đến ngày 26 tháng 4 năm 2020, H nhiều lần đến khu vực huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh mua ma túy (dạng đá và Heroin) về bán lại cho các đối tượng nghiện ma túy tại huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương để sử dụng và kiếm tiền tiêu xài.
Sáng ngày 26 tháng 4 năm 2020, H điều khiển xe mô tô biển số 61L5-4054 đến huyện Củ Chi mua ma túy đá với giá 400.000 đồng và ma túy Heroin với giá 600.000 đồng của một đối tượng tên Tú (không rõ tên tuổi, địa chỉ). Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, Huỳnh điều khiển xe mô tô trên đến trước cổng Công ty giấy An Bình thuộc Khu công nghiệp Bàu Bàng, thị trấn Lai Uyên, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương để bán ma túy Heroin cho Lữ Giang Hồng thì bị lực lượng Công an tuần tra phát hiện bắt quả tang H, thu giữ tang vật gồm: 01 gói giấy bạc chứa chất màu trắng trong túi áo khoác bên phải của H; 01 xe mô tô biển số 61L5-4054; 01 giấy đăng ký xe mô tô số 025273; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng có số imei 359239060332401 của Hoàng Văn H.
Khám xét khẩn cấp nơi ở của Huỳnh tại tổ 9, ấp cầu sắt, xã L, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương, Công an thu giữ được: 02 gói giấy bạc chứa chất màu trắng được giấu trong bao thuốc lá hiệu Jet để trong ngăn bên trái của tủ đồ trong phòng ngủ của H (phòng số 03 theo hướng từ ngoài vào trong), H khai nhận là ma túy loại Heroin; 02 lọ nhựa giấu trong đôi giày thể thao để trên kệ giày bên hông trái nhà (nhìn từ hướng ngoài sân vào), trong đó 01 lọ nhựa chứa 02 gói nilon miệng kéo dính chứa chất màu trắng, H khai nhận là ma túy loại Heroin; 01 lọ nhựa; 01 gói nilon chứa chất tinh thể màu trắng, H khai nhận là ma túy đá. số ma túy trên H khai mua về để sử dụng và bán cho các đối tượng nghiện ma túy; 06 kim tiêm qua sử dụng; 01 ống hút nhựa; 01 ống thủy tinh; 02 hộp quẹt ga và 01 dao lam đã qua sử dụng.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Hoàng Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng và các tài liệu chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án là trong khoảng thời gian từ tháng 3 năm 2020 đến ngày 26 tháng 4 năm 2020, Huỳnh bán lại cho các đối tượng nghiện ma túy trên địa bàn huyện Bàu Bàng, cụ thể:
Bán cho Nguyễn Văn Toàn khoảng 05 đến 06 lần, mỗi lần bán 01 gói heroin với giá 200.000 đồng. Bán cho Lữ Giang Hồng khoảng 08 đến 10 lần, mỗi lần bán 01 gói Heroin với giá 200.000 đồng tại khu vực trước cổng Công ty giấy An Bình thuộc Khu công nghiệp Bàu Bàng, thị trấn Lai Uyên, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương.
Bán cho Lò Văn Thắng 02 lần, mỗi lần bán 01 gói Heroin với giá 200.000 đồng tại khu vực gần Công ty cám Emivest thuộc Khu công nghiệp Bàu Bàng, thị trấn Lai Uyên, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương.
Bán cho Phan Văn Tính khoảng 05 đến 06 lần, mỗi lần bán 01 gói Heroin với giá 200.000 đồng tại khu vực trước cổng Công ty giấy An Bình, thị trấn Lai Uyên, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương và khu vực hồ Trâu Sữa, xã L, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương.
Đối với 01 xe mô tô hiệu Honda SCR, màu đen có biển số 61L5-4054 và giấy chứng nhận đăng ký xe tên Nguyễn Ngọc Bích là của bà Nguyễn Ngọc Bích đã bán lại cho Lê Thị Nguyệt (vợ bị cáo), việc bị cáo sử dụng xe vào việc mua bán ma túy bà Nguyệt không biết. Trong quá trình điều tra xác minh xe này là tài sản chung của bà Nguyệt và bị cáo. Cơ quan cảnh sát điều tra trả lại cho bà Nguyệt nên bà Nguyệt có trách nhiệm thanh toán 1/2 giá trị xe là 3.500.000 đồng để nộp vào Ngân sách nhà nước.
Tại bản Kết luận giám định số 252/MT-PC09 ngày 04 tháng 5 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định mẫu gửi giám định đều là ma túy: loại Heroin có tổng trọng lượng 1,5718 gam (mẫu M1 trọng lượng 0,0451 gam, M3 trọng lượng 0,1157 gam, M4-1 trọng lượng 0,2241 gam, M4-2 trọng lượng 1,1869 gam), ma túy loại Methamphetamine có trọng lượng 0,9067 gam (M2). Mẫu vật sau giám định được niêm phong: 252/PC09 M1 trọng lượng 0,0312 gam; 252/PC09 M2 trọng lượng 0,8445 gam; 252/PC09 M3 trọng lượng 0,0997 gam; 252/PC09 M4 trọng lượng 0,1998 gam (M4-1), trọng lượng 1,1730 gam (M4-2).
Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.
Quá trình điều tra, H khai nhận tiền thu từ việc bán trái phép chất ma túy số tiền là 4.800.000 đồng.
Đối với hành vi mua ma túy của Nguyễn Văn Toàn, Lữ Giang Hồng, Lò Văn Tháng và Phan Văn Tính và Tô Văn Phú đã bị Công an huyện Bàu Bàng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với mỗi đối tượng số tiền là 750.000 đồng.
Tại bản Cáo trạng số: 45/CTVKSBB ngày 01 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Hoàng Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251; các điểm r, s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 2 Điều 52 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Hoàng Văn H với mức án từ 08 (tám) năm đến 09 (chín) năm tù.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại hiệu Iphone màu vàng, số imei 359239060332401.
Tịch thu tiêu hủy: số ma túy hoàn lại sau giám định có trọng lượng 0.0312 gam Heroin (M1); 0,8445 gam (M2); 0,0997 gam Methaphetamine (M3); 0,1998 gam Heroin (M4-1); 1,1730 gam Heroin (M4-2), 06 ống kim tiêm chưa qua sử dụng, 01 ống thủy tinh, 01 ống hút, 02 hộp quẹt ga, 02 lọ nhựa màu trắng và 01 dao lam đã qua sử dụng.
Tiền thu lợi bất chính: Bị cáo đã nộp 4.800.000 đồng.
Bà Nguyệt đã nhận xe mô tô hiệu Honda SCR, màu đen có biển số 61L5- 4054 nên có trách nhiệm nộp ngân sách nhà nước số tiền 3.500.000 (ba triệu năm trăm nghìn) đồng.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thống nhất với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận.
Người làm chứng Nguyễn Văn Toàn, Lữ Giang Hồng, Lò Văn Thắng và Phan Văn Tính vắng mặt tại phiên tòa nên không ghi nhận được ý kiến.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Lê Thị Nguyệt không có ý kiến tranh luận.
Bị cáo nói lời sau cùng: Hành vi của bị cáo là sai trái, vi phạm pháp luật. Bị cáo rất ăn năn và hối hận, bị cáo xin được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước và pháp luật để bị cáo có cơ hội sớm được trở về hòa nhập với xã hội.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Văn H đã thành khẩn khai nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, các tài liệu, chứng cứ thu giữ trong vụ án, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: từ tháng 3 đến ngày 26 tháng 4 năm 2020, bị cáo đã bán ma túy cho nhiều đối tượng là Lữ Giang Hồng, Nguyễn Văn Toàn, Phan Văn Tính và Lò Văn Thắng. Bị cáo bán cho mỗi đối tượng từ 02 đến 10 lần. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Hoàng Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét thấy, bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo H là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Đồng thời, xâm phạm nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội, gây hệ quả xấu cho con người, là nguyên nhân gây ra các căn bệnh xã hội và các loại tội phạm khác, về nhận thức, bị cáo biết được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là trái quy định của pháp luật nhưng để có tiền tiêu xài và thỏa mãn cơn nghiện cho bản thân, bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù trong một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
[4] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau:
[4.1] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo có một tiền án chưa được xóa án tích nên thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[4.2] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo tự thú khai hành vi phạm tội trước đó theo quy định tại các điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[5] Xét đề nghị của Kiểm sát viên về mức hình phạt đối với bị cáo tại phiên tòa là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Về tiền thu lợi bất chính: Bị cáo H bán ma túy cho các đối tượng tổng cộng là 24 lần, tổng số tiền 4.800.000 đồng. Bị cáo đã nộp nên tuyên tịch thu số tiền bị cáo đã nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.
[7] Về vật chứng:
- 01 (một) điện thoại hiệu Iphone màu vàng, số imei 359239060332401 là phương tiện bị cáo dùng để thực hiện tội phạm nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước theo quy định tại Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Mẫu vật hoàn lại sau giám định có trọng lượng 0.0312 gam Heroin (M1); 0,8445 gam (M2); 0,0997 gam Methaphetamine (M3); 0,1998 gam Heroin (M4- 1); 1,1730 gam Heroin (M4-2), dụng cụ sử dụng ma túy là 06 ống kim tiêm chưa qua sử dụng, 01 ống thủy tinh, 01 ống hút, 02 hộp quẹt ga, 02 lọ nhựa màu trắng và 01 dao lam đã qua sử dụng là công cụ, phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Đối với 01 xe mô tô hiệu Honda SCR, màu đen có biển số 61L5-4054 và giấy chứng nhận đăng ký xe tên Nguyễn Ngọc Bích, bà Nguyễn Ngọc Bích bán lại cho Lê Thị Nguyệt (vợ bị cáo), việc bị cáo sử dụng xe vào việc mua bán ma túy bà Nguyệt không biết. Trong quá trình điều tra xác minh xe này là tài sản chung của bà Nguyệt và bị cáo. Cơ quan cảnh sát điều tra trả lại cho bà Nguyệt nên bà Nguyệt có trách nhiệm nộp vào Ngân sách nhà nước số tiền 3.500.000 (ba triệu năm trăm nghìn) đồng.
[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 251; các điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 2 Điều 52, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Căn cứ các Điều 99, 106, 292, 293 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của ủy ban thường vụ Quốc hội.
1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Hoàng Văn H 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án nhưng được khấu trừ vào thời hạn tạm giam từ ngày 26 tháng 4 năm 2020 đến ngày 05 tháng 5 năm 2020.
Tiếp tục cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Hoàng Văn H kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm chấp hành án phạt tù.
2. Về tang vật của vụ án:
Tịch thu tiêu hủy: mẫu vật hoàn lại sau giám định có trọng lượng 0.0312 gam Heroin (M1); 0,8445 gam (M2); 0,0997 gam Methaphetamine (M3); 0,1998 gam Heroin (M4-1); 1,1730 gam heroin (M4-2), 06 ống kim tiêm chưa qua sử dụng, 01 ống thủy tinh, 01 ống hút, 02 hộp quẹt ga, 02 lọ nhựa màu trắng và 01 dao lam đã qua sử dụng .
Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại hiệu Iphone màu vàng, số imei 359239060332401.
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 26 tháng 8 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương).
Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 4.800.000 (bốn triệu tám trăm nghìn) đồng bị cáo đã nộp theo biên lai thu tiền số AB/2010 00426 ngày 16 tháng 9 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương.
Buộc bà Lê Thị Nguyệt phải nộp vào Ngân sách nhà nước số tiền 3.500.000 (ba triệu năm trăm nghìn) đồng.
3. Về án phí: Bị cáo Hoàng Văn H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án dược niêm yết theo quy định.
Bản án 41/2020/HS-ST ngày 22/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 41/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bàu Bàng - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về