TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 41/2020/HS-ST NGÀY 14/10/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thụ lý số 36/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2020/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 03 tháng 11 năm 1996; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 22, phường PĐP, Thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa 12/12; Nghề nghiệp: không; con ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1974 và bà Nguyễn Thị Như H, sinh năm 1977; chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không có Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/5/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. Có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo do Đoàn Luật sư tỉnh Thái Nguyên cử:
Bà Nhữ Thị M, Luật sư Văn phòng Luật sư TH thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Thái Nguyên. (có mặt) Người chứng kiến:
Ông Hoàng Xuân C, sinh năm 1958. (Vắng mặt).
Nơi cư trú: Tổ 11, phường ĐQ, Thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1 Hồi 20 giờ 50 phút ngày 08/5/2020, tổ công tác đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 11, phường ĐQ, Thành phố TN, phát hiện Nguyễn Văn T, sinh năm 1996, trú tại tổ 22, phường PĐP, Thành phố TN đang đứng trên vỉa hè đường VB có biểu hiện nghi vấn, liên quan đến ma túy nên yêu cầu kiểm tra. Tiến hành kiểm tra đối với T phát hiện tại túi quần bên phải T đang mặc có 02 gói được bọc bằng băng dính màu đen, bên trong các gói đều có chứa chất bột màu trắng, T khai là ma túy loại Heroine, số chất nghi ma túy này được thu giữ niêm phong theo quy định (ký hiệu T); ngoài ra còn thu giữ của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone có số thuê bao 0867.862.578 (niêm phong ký hiệu A). Tổ công tác lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang đối với T, đưa T cùng vật chứng về Cơ quan điều tra để điều tra làm rõ.
Cùng ngày khám xét nơi ở của T tại tại tổ 22, phường PĐP, Thành phố TN không phát hiện thu giữ gì.
Mở niêm phong A kiểm tra chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone thu giữ của T: Không phát hiện dữ liệu gì có liên quan đến vụ án.
Tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng và lấy mẫu gửi giám định đối với số chất bột màu trắng nghi ma túy thu giữ của T, kết quả: Tổng khối lượng chất bột màu trắng trong bì niêm phong T là 75,242 gam, lấy 7,812 gam làm mẫu gửi giám định (Ký hiệu bì T1) còn lại niêm phong lưu kho theo quy định.
Tại bản kết luận giám định chất ma túy số 659/KL- KTHS ngày 17/5/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu T1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng gửi giám định là 7,812 gam, tổng khối lượng thu giữ ban đầu là 75,242 gam.
Quá trình điều tra làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo như sau: Do hám lời nên Nguyễn Văn T nảy sinh ý định mua ma túy để bán lại kiếm lời, khoảng 18 giờ ngày 08/5/2020 có T2 (T không biết rõ họ, tên đệm và địa chỉ cụ thể) là người T mới quen, gọi điện cho T đặt mua 02 “cây” ma túy loại Heroine. T nói giá 02 cây là 44.000.000đ (bốn mươi bốn triệu đồng) T2 đồng ý mua và hẹn khoảng 20 giờ cùng ngày sẽ gặp nhau ở trước cổng trường Văn hóa nghệ thuật VB, thuộc tổ 11, phường ĐQ để mua bán ma túy. Sau khi thống nhất với T2 xong T điện thoại cho Nguyễn Thanh B, sinh năm 1984, trú tại tổ dân phố GB, phường ĐB, Thành phố TN, là người quen của T đặt mua 02 cây Heroine với giá 40.000.000đ, B đồng ý. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 08/5/2020 T một mình đi taxi đến nhà B, tại đây T mua của B 02 gói ma túy được gói bằng băng dính màu đen và hẹn khi bán xong sẽ trả tiền cho B. B đồng ý, sau đó T đi xe Taxi đến điểm hẹn mục đích gặp T2 để bán ma túy nhưng chưa kịp bán thì bị bắt quả tang cùng toàn bộ 75,242 gam ma túy loại Heroine như nêu trên.
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên đã tiến hành cho T nhận dạng qua ảnh đối với Nguyễn Thanh B, sinh năm 1984, trú tại tổ dân phố GB, phường ĐB, Thành phố TN, T xác định chính B là người đã bán 75,242 gam Heroine cho T ngày 08/5/2020, qua xác minh hiện B không có mặt tại địa phương. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ.
Lời khai nhận của bị cáo là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định chất ma túy, lời khai của người chứng kiến… Tại bản cáo trạng số 56/CT - VKS - P1, ngày 28/9/2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.
Phần luận tội tại phiên tòa hôm nay, sau khi phân tích, đánh giá tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự;
Căn cứ điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 15 đến 16 năm tù. Phạt bổ sung bị cáo từ 10 đến 15 triệu đồng để sung quỹ Nhà nước.
Vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu: L, bên ngoài ghi có 67,43 gam Heroine; 01 bì niêm phong ký hiệu T1, bên ngoài ghi có 7,789 gam Heroine.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, vỏ màu đen, đã qua sử dụng.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát.
Luật sư bào chữa cho bị cáo xác định việc truy tố đối với bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 BLHS là đúng, Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét điều kiện, hoàn cảnh đặc biệt của bị cáo. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, đã ăn năn hối cải. Bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt .
Bị cáo nhất trí với nội dung bào chữa của vị Luật sư.
Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, điều tra viên, kiểm sát viên và người bào chữa đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, Luật sư và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đảm B hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.
[2]. Căn cứ lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ được và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hồi đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Do hám lời, ngày 08/5/2020 Nguyễn Văn T đã mua của Nguyễn Thanh B 75,242 gam ma túy loại Heroine với giá 40.000.000đ, sau đó mang đến khu vực cổng trường văn hóa nghệ thuật VB, thuộc tổ 11, phường ĐQ, Thành phố TN mục đích để bán lại cho T2 là người đã đặt mua ma túy của T trước đó với giá 44.000.000đ, trong khi đợi T2 đến để bán ma túy thì bị tổ công tác Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang cùng 75,242 gam Heroine.
Với hành vi nêu trên, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn T về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Nội dung Điều 251 Bộ luật hình sự:
“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
...
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:
b, Heroine có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;” 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ ...” [3]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi và năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương, vì vậy cần phải được xử lý bằng pháp luật hình sự, buộc bị cáo phải cách ly xã hội để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời răn đe, phòng chống tội phạm chung.
[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, có thái độ ăn năn hối cải, bị cáo có ông, bà nội được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến và Huy chương kháng chiến nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.
Đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo, Hội đồng xét xử xem xét theo quy định của pháp luật.
[5]. Vật chứng vụ án: Số ma túy thu giữ của các bị cáo được niêm phong trong các phong bì niêm phong ký hiệu: L, T1 cần tịch thu tiêu hủy theo quy định; chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE thu giữ của bị cáo, xác định bị cáo sử dụng liên lạc mua bán ma túy cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội vì mục đích lợi nhuận, vì vậy cần phải phạt bổ sung một khoản tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự, để sung quỹ Nhà nước. Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
[7]. Đối với Nguyễn Thanh B, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên đã tiến hành cho T nhận dạng qua ảnh đối với B, sinh năm 1984, trú tại tổ dân phố GB, phường ĐB, Thành phố TN, T xác định chính B là người đã bán 75,242 gam Heroine cho T ngày 08/5/2020, qua xác minh hiện B không có mặt tại địa phương. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự;
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
1. Về hình phạt: Căn cứ vào điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 16 (mười sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/5/2020. Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000đ (năm triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.
Căn cứ vào Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Văn T 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm B thi hành án.
2. Vật chứng vụ án: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 phong bì niêm phong ký hiệu L trên mép dán có chữ ký của Nguyễn Văn T và Thành phần tham gia niêm phong, có hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 67,43 gam Heroine.
+ 01 phong bì niêm phong ký hiệu T1, bên ngoài ghi có 7,789 gam Heroine là mẫu hoàn lại sau giám định, có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE, vỏ nhựa màu đen, điện thoại cũ, đã qua sử dụng, màn hình vỡ, xước xát, không kiểm tra máy bên trong..
(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 60, ngày 22 tháng 9 năm 2020 giữa Công an tỉnh Thái Nguyên với Cục THADS tỉnh Thái Nguyên).
3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 41/2020/HS-ST ngày 14/10/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 41/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/10/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về