Bản án 41/2020/HNGĐ-ST ngày 24/07/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 41/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/07/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 24 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 114/2020/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 02 năm 2020 về việc “Ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị T, sinh năm 1974;

Địa chỉ: Số 488/17 đường P, Phường D, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Lê Tấn T, sinh năm 1973;

Địa chỉ: Số 780/37/123 đường B, phường C, thành phố V, tỉnh B (vắng mặt lần thứ hai không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa nguyên đơn bà Lê Thị T trình bày:

Bà và ông Lê Tấn T tự nguyện tìm hiểu một thời gian thì tổ chức đám cưới và làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, thị xã V, tỉnh V vào năm 1993. Sau khi sống chung thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình, quan điểm sống trái ngược nên vợ chồng không tìm được tiếng nói chung trong các công việc của gia đình. Ngoài ra, ông T không có trách nhiệm với vợ con, không lo làm ăn để phụ giúp kinh tế cho gia đình, thường xuyên tụ tập bạn bè nhậu nhẹt và có các mối hệ nam nữ với những người phụ nữ khác ở bên ngoài. Bà đã nhiều lần khuyên bảo nhưng ông T không nghe còn xúc phạm, thậm chí đánh đập bà. Khoảng đầu năm 2018, bà bắt gặp ông T có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác nên bà đưa 02 con chuyển lên Sài Gòn sống và vợ chồng sống ly thân với nhau đến nay. Trong thời gian sống ly thânvợ chồng không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau. Nay, bà xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu ly hôn với ông Lê Tấn T .

Về con chung: Bà và ông T có 02 con chung là Lê Thị Ngọc T, sinh năm 1995 và Lê Quốc T, sinh năm 2001. Do cháu Ngọc T và cháu Quốc T đã trưởng thành nên bà không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Lê Tấn T mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không đến Tòa án làm việc, không có ý kiến gì đối với yêu cầu của nguyên đơn.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V phát biểu ý kiến:

Về tố tụng : Trong qua trinh giai q uyêt vu an Thẩm phán đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định pháp luật. Tại phiên tòa Hôi đông xet xư va thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Bà Lê Thị T yêu cầu ly hôn với ông Lê Tấn T có địa chỉ cư trú tại thành phố Vũng Tàu. Căn cứ Điều 28; Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự xác định đây là vụ án “Ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Lê Tấn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia giải quyết vụ án, triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông T là phù hợp quy định pháp luật.

[2]. Về nội dung:

Bà Lê Thị T và ông Lê Tấn T tự nguyện tìm hiểu, chung sống có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên là hôn nhân hợp pháp.

Xét về tình trạng hôn nhân giữa bà T và ông T thì thấy: Theo bà T thì nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không tìm được tiếng nói chung trong các công việc của gia đình. Ngoài ra, ông T không có trách nhiệm với vợ con, không lo làm ăn để phụ giúp kinh tế cho gia đình, thường xuyên tụ tập bạn bè nhậu nhẹt và có các mối hệ nam nữ với những người phụ nữ khác ở bên ngoài. Bà đã nhiều lần khuyên bảo nhưng ông T không nghe còn xúc phạm, thậm chí đánh đập bà. Vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ đầu năm 2018 đến nay. Trong thời gian sống ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau.

Theo xác minh tại địa phương thì ông Lê Tấn T cùng cháu Lê Quốc T cư trú tại địa chỉ 780/37/123 đường B, phường C, thành phố V từ năm 2018 đến nay. Trong thời gian ông T cư trú tại địa chỉ trên không thấy bà T lui tới lần nào nên đại diện địa phương không nắm được nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng giữa bà T và ông T.

Tại phiên tòa, bà T xác định không còn tình nghĩa vợ chồng đối với ông T, hai bên đã sống ly thân từ đầu năm 2018 đến nay. Trong thời gian sống ly thân vợ chồng không còn sự quan tâm, chăm sóc đến nhau.

Xét thấy, mâu thuẫn xảy ra trong quan hệ vợ chồng giữa bà T và ông T là có thật, vợ chồng cũng nhiều lần hàn gắn tình cảm nhưng không có kết quả. Vợ chồng đã sống ly thân, không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau, không có khả năng hàn gắn tình cảm. Do vậy, mâu thuẫn hôn nhân là trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T là phù hợp.

Về con chung: Bà Lê Thị T và ông Lê Tấn T có 02 con chung là Lê Thị Ngọc T, sinh năm 1995 và Lê Quốc T, sinh năm 2001. Cháu Ngọc T và cháu Quốc T đã trưởng thành nên bà không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3].Về án phí Dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị T phải chịu 300.000đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 19, Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân va gia đình ; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị T đối với ông Lê Tấn T.

1. Về hôn nhân: Bà Lê Thị T ly hôn với ông Lê Tấn T.

2. Về con chung: Bà T và ông T có 02 (hai) con chung là Lê Thị Ngọc T, sinh năm 1995 và Lê Quốc T, sinh năm 2001. Cháu Ngọc T và cháu Quốc T đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

4. Về án phí Dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị T phải chịu 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000025 ngày 21-02-2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Vũng Tàu.

5. Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án Dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 41/2020/HNGĐ-ST ngày 24/07/2020 về ly hôn

Số hiệu:41/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;