Bản án 41/2019/HNGĐ-ST ngày 22/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 41/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 22 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Việt Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 263/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 9 năm 2019, thông báo thay đổi lịch xét xử số 25/2019/TB-TA ngày 09/10/2019, quyết định hoãn phiên tòa số 17/2019/QĐST-HPT ngày 18/10/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị N, sinh năm 1980 (có mặt)

HKTT: Thôn V, xã V, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang

- Bị đơn: Anh Dương Ngô L, sinh năm 1969 (vắng mặt)

HKTT: Thôn V, xã V, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 06/8/2018 và các lời khai tại Toà án, nguyên đơn – chị Lê Thị N trình bày:

Về quan hệ vợ chồng: Chị kết hôn với anh Dương Ngô L vào ngày 10/11/2004 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn chị về làm dâu gia đình nhà anh L ngay. Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc được một thời gian ngắn thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh L thường xuyên rượu chè, cờ bạc không chăm lo đến cuộc sống gia đình, thậm chí còn thường xuyên đánh đập, hành hạ chị. Thời gian gần đây anh L lại càng uống rượu nhiều hơn. Mặc dù hiện nay vợ chồng chị vẫn chung sống cùng nhà nhưng thực tế đã ly thân từ tháng 7/2019 cho đến nay. Khi vợ chồng chị có mâu thuẫn đã được bạn bè, gia đình hai bên chủ động dàn xếp hoà giải nhưng vẫn không được. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, chị xin được ly hôn với anh L.

Về con chung: Chị xác định vợ chồng có 02 con chung là cháu Dương Thị Mai H, sinh ngày 16/9/2005 và cháu Dương Thành N, sinh ngày 22/6/2012. Hiện nay cả 2 cháu đều đang ở với chị và anh L. Trường hợp giải quyết ly hôn, chị và anh L thống nhất chị là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, anh L là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu H. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết.

Về tài sản, công sức, công nợ, ruộng canh tác: Vợ chồng không có gì liên quan nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Bị đơn – anh Dương Ngô L có lời khai trình bày trong hồ sơ như sau:

Về quan hệ vợ chồng: Anh kết hôn với chị Lê Thị N vào ngày 10/11/2004 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn thì chị N về nhà anh làm dâu ngay. Quá trình chung sống vợ chồng đến nay vẫn hạnh phúc, không có mâu thuẫn gì lớn. Anh khẳng định không có việc anh rượu chè cờ bạc, không chăm lo đến cuộc sống gia đình và cũng không bao giờ anh có hành vi đánh đập với chị N. Trước đây cuộc sống gia đình luôn êm ấm thuận hoà, thậm chí mỗi lần chị N đau ốm đi viện đều là anh chăm sóc. Tuy nhiên, từ tháng 7 năm 2019 cho đến nay, sau khi đi chữa bệnh đau đầu ở bệnh viện Kinh Bắc về thì chị N trở nên khó tính, hay cằn nhằn kiếm chuyện sinh sự với anh và các con. Việc chị N có ý định và làm đơn xin ly hôn thì anh và gia đình hoàn toàn không được biết. Hiện nay, vợ chồng anh không ly thân, vẫn chung sống cùng nhau. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, vợ chồng không có mâu thuẫn gì, anh không đồng ý ly hôn với chị N.

Về con chung: Anh xác định vợ chồng có 02 con chung là cháu Dương Thị Mai H, sinh ngày 16/10/2005 và cháu Dương Thành N, sinh ngày 22/6/2012. Hiện nay cả 2 cháu đều đang ở với vợ chồng anh. Trường hợp giải quyết ly hôn anh và chị N thống nhất thỏa thuận chị N là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, còn anh là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu H. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản, công sức, công nợ, ruộng canh tác: Vợ chồng không có gì liên quan nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Cháu Dương Thị Mai H có lời khai trình bày trong hồ sơ như sau:

Cháu là con của mẹ Lê Thị N và bố Dương Ngô L. Cháu và gia đình cháu không hề biết trước việc mẹ cháu làm đơn xin ly hôn với bố cháu. Trong quá trình chung sống cháu thấy bố mẹ cháu không có mâu thuẫn gì. Việc mẹ cháu cho rằng bố cháu rượu chè cờ bạc không chăm lo đến cuộc sống gia đình là không đúng. Bố cháu cũng chưa bao giờ có hành vi đánh đập đối với mẹ cháu. Thậm chí mẹ cháu nhiều lần bị ốm đau đều là bố cháu chăm sóc. Tuy nhiên từ tháng 7 năm 2019 cho đến nay, sau khi đi chữa bệnh đau đầu ở bệnh viện Kinh Bắc về thì mẹ cháu trở nên khó tính, hay cằn nhằn kiếm chuyện sinh sự với bố cháu, với cháu và em cháu. Hiện nay bố mẹ cháu vẫn chung sống cùng nhà, chị em cháu cũng đang ở cùng bố mẹ cháu. Cháu không muốn bố mẹ cháu ly hôn, vì cháu thấy cuộc sống gia đình cháu vẫn êm ấm thuận hoà, không có mâu thuẫn gì.

Xác minh tại địa phương, chính quyền thôn V cho biết: Vợ chồng chị N anh L kết hôn vào năm 2004, trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do anh L không có công ăn việc làm ổn định, thường xuyên rượu chè. Mỗi khi anh L uống rượu say là không làm chủ được hành vi của mình, về nhà kiếm cớ gây chuyện với chị N, thậm chí đánh đập chị N. Đến nay mâu thuẫn vợ chồng càng trở nên trầm trọng. Nay chị N có đơn xin ly hôn anh L đề nghị Toà án hoà giải để vợ chồng về đoàn tụ, trường hợp hoà giải không thành đề nghị giải quyết theo quy định pháp luật.

Tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn – chị Lê Thị N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình đối với anh L. Về quan hệ vợ chồng, chị yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh L. Lý do chị xin ly hôn anh L vì anh L thường xuyên rượu chè, cờ bạc rồi về đánh đập chị. Chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 9/2019 cho đến nay nhưng anh L thường xuyên xuống nhà đẻ chị quấy rối. Ngày 17/9/2019, anh L còn xuống tận công ty đánh đập và chửi bới chị nên chị kiên quyết xin ly hôn anh L. Về con chung, chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N và đồng ý để anh L là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hư. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị không yêu cầu Toà án giải quyết vấn đề gì khác.

Anh Dương Ngô L đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. HĐXX công bố lời khai của anh L có trong hồ sơ. Chị N không có ý kiến gì về những lời khai đó.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật trong suốt quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành phát luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Toà án, xử:

Về quan hệ vợ chồng: Chị Lê Thị N được ly hôn anh Dương Ngô L.

Về con chung: Giao anh Dương Ngô L trực tiếp nuôi dưỡng cháu Dương Thị Mai H, sinh ngày 16/10/2005 và chị Lê Thị N trực tiếp nuôi dưỡng cháu Dương Thành N, sinh ngày 22/6/2012. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung chị N anh L không yêu cầu tòa án giải quyết. Chị N, anh L có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở việc này.

Về án phí: Chị Lê Thị N phải chịu án phí ly hôn theo quy định pháp luật nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu hồ sơ và thẩm tra các chứng cứ tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Lê Thị N xin ly hôn anh Dương Ngô L và đề nghị giải quyết việc nuôi con chung của vợ chồng nên đây là quan hệ pháp luật về tranh chấp hôn nhân và gia đình. Bị đơn là anh Dương Ngô L có địa chỉ tại thôn V, xã V, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang nên theo quy định tại Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.

Anh L đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Do vậy, HĐXX căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh L.

[2] Về quan hệ vợ chồng: Chị Lê Thị N và anh Dương Ngô L đều khai anh chị kết hôn ngày 10/11/2004 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Chị N cũng đã cung cấp được giấy chứng nhận đăng ký kết hôn bản gốc. Như vậy, hôn nhân của chị N và anh L là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Nay chị N xin ly hôn, anh L xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, anh không đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy:

Qua xác minh với chính quyền địa phương nơi chị N anh L sinh sống xác định quá trình chung sống chị N anh L có nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh L không có công ăn việc làm ổn định, thường xuyên rượu chè và mỗi khi rượu say anh L đều không làm chủ được hành vi, về nhà kiếm cớ gây sự, thậm chí chửi bới, đánh đập chị N nhiều lần. Ngày 17/10/2019, anh L đã xuống công ty chị N làm việc và có hành vi chửi bới, đánh chị N ngay trước cổng công ty có chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1982, địa chỉ K, Q, Việt Yên, Bắc Giang là người chứng kiến toàn bộ sự việc (biên bản làm việc ngày 17/10/2019). Do vậy, việc anh L khai không bao giờ có hành vi đánh chửi chị N là không đúng. Bản thân đơn xin ly hôn chị N viết ngày 06/8/2018 nhưng đến ngày 12/8/2019, chị N mới nộp đơn chứng tỏ trước thời điểm Tòa án thụ lý vụ án ngày 19/8/2019 thì giữa chị N và anh L đã có mâu thuẫn nên chị N đã làm đơn nhưng chưa gửi. Do vậy, việc anh L khai vợ chồng không có mâu thuẫn là không chính xác. Hơn nữa, qua kiểm tra sổ sách lưu giữ tại văn phòng Tòa án nhân dân huyện Việt Yên xác định năm 2015, chị N đã nộp đơn xin ly hôn anh L và nộp tiền tạm ứng án phí. Tuy nhiên, trong quá trình hòa giải chị N rút đơn về vợ chồng đoàn tụ nên Tòa án đã ra quyết định đình chỉ vụ án. Việc chị N làm đơn xin ly hôn anh L lần thứ 2 chứng tỏ vợ chồng mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Từ những căn cứ nêu trên xác định việc chị N xin ly hôn anh L là có cơ sở, cần chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Lê Thị N và anh Dương Ngô L đều xác nhận anh chị có 02 con chung là cháu Dương Thị Mai H, sinh ngày 16/10/2005 và cháu Dương Thành N, sinh ngày 22/6/2012. Chị N và anh L đều thống nhất thoả thuận anh L là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Dương Thị Mai H và chị N là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Dương Thành N nên cần giao cháu N cho chị N nuôi dưỡng, giao cháu H cho anh L nuôi dưỡng là phù hợp. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung chị N anh L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này.

[4] Về tài sản, công sức, công nợ, ruộng đất: Chị Lê Thị N và anh Dương Ngô L đều xác định không có, không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, chị Lê Thị N phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Ngoài ra, cần áp dụng các Điều 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

- Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

Xử:

Về quan hệ vợ chồng: Chị Lê Thị N được ly hôn anh Dương Ngô L.

Về con chung: Giao chị Lê Thị N được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Dương Thành N, sinh ngày 22/6/2012, giao anh Dương Ngô L được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Dương Thị Mai H, sinh ngày 16/10/2005. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung chị N anh L không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị N, anh L có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh chị thực hiện quyền này.

Về án phí: Chị Lê Thị N phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số AA/2012/05557 ngày 19/8/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Việt Yên. Chị N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Báo thời hạn kháng cáo là 15 ngày cho đương sự có mặt biết kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt biết quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 41/2019/HNGĐ-ST ngày 22/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:41/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;