Bản án 41/2018/HNGĐ-ST ngày 27/09/2018 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẤT ĐỎ, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 41/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 27 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 109/2018/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 5 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:46/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2018 và quyết định hoãn phiên tòa số: 24/2018/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm: 1987, “có mặt” Địa chỉ: Tổ 8 ấp L, xã H, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

2. Bị đơn: Anh Võ Minh T, sinh năm 1985, “vắng mặt”

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp H, xã T, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 24 tháng 4 năm 2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Trần Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Chị Trần Thị H và anh Võ Minh T tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn năm 2014. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống cùng với gia đình anh T tại ấp H, xã T, huyện Đ, chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp nhau, thường xuyên bất đồng quan điểm, ngoài ra anh T còn có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác nên không quan tâm đến gia đình, từ đó vợ chồng thường xuyên cãi vả, không còn hạnh phúc. Đến cuối năm 2016 anh T tự ý bỏ nhà đi nhưng không biết đi đâu, chị H cũng dẫn con về nhà cha mẹ ruột ở và vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Nay, chị H nhận thấy mâu thuẫn của vợ chồng thật sự trầm trọng, không thể hàn gắn được nên yêu cầu được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị H và anh T có 01 người con chung là Võ Ngọc Bảo T, sinh ngày 04-9-2015. Hiện nay con đang ở với chị H, chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị H xác định không có nên không yêu cầu giải quyết.

- Bị đơn anh Võ Minh T vắng mặt tại phiên tòa. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt Thông báo thụ lý vụ án cho anh T và giấy triệu tập anh T đến Tòa án để ghi nhận ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị H nhưng anh T không đến và cũng không có văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị H, không có yêu cầu phản tố.

- Tại Biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân của chị H và anh T tại địa phương vào ngày 20 tháng 7 năm 2018 thể hiện: Quá trình chung sống vợ chồng không có xảy ra mâu thuẫn gì, nhưng hiện nay chị H và anh T không còn chung sống với nhau nữa.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu:

Về tố tụng: Việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng bị đơn anh Võ Minh T không đến Tòa án tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, không tham gia phiên tòa sơ thẩm là không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật. Tòa án xét xử vắng mặt anh T là đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, ý kiến trình bày của đương sự và kết quả tranh luận tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Căn cứ theo đơn khởi kiện của chị H xác định đây là vụ án hôn nhân gia đình về tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn. Bị đơn cư trú trên địa bàn huyện Đất Đỏ nên Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Bị đơn anh Võ Minh T đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên toà nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Do đó, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh T.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Chị Trần Thị H và anh Võ Minh T tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện Đ cấp giấy chứng nhận kết hôn số 64/2014, quyển số 01/2014 vào ngày 03 tháng 11 năm 2014. Do đó, xác định hôn nhân của chị H và anh T là hợp pháp. Nay chị H xin ly hôn với lý do anh T có quan hệ ngoại tình nên vợ chồng thường xuyên cải vã với nhau, từ đó cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, hiện tình cảm vợ chồng dành cho nhau không còn và đã ly thân từ cuối năm 2016 đến nay. Qua yêu cầu của chị H, Hội đồng xét xử nhận thấy từ sau khi vụ án được thụ lý và trong suốt quá trình giải quyết, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ đối với anh T đến Tòa án để giải quyết vụ án nhưng anh T vẫn không đến Tòa. Điều này chứng tỏ anh T không có trách nhiệm đối với hôn nhân của mình, không có thiện chí trong việc giải quyết mâu thuẫn gia đình và không mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H đối với anh T.

[2.2] Về nuôi con chung: Chị H và anh T có 01 con chung là Võ Ngọc Bảo T, sinh ngày 04-9-2015. Qua yêu cầu của chị H, Hội đồng xét xử nhận thấy mặc dù không ghi nhận được ý kiến của anh T về việc nuôi con chung nhưng từ khi ly thân đến nay chị H là người trực tiếp nuôi dưỡng con và hiện con chung dưới 36 tháng tuổi. Do đó, việc giao con chung cho chị H nuôi dưỡng là phù hợp Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Việc chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con là ý chí tự nguyện và không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H xác định không có nên không yêu cầu giải quyết, vì vậy không xét đến.

[3] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, chị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, anh T không phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về hôn nhân: Chị Trần Thị H được ly hôn với anh Võ Minh T. 

2. Về nuôi con chung: Giao con chung là Võ Ngọc Bảo T, sinh ngày 04-9- 2015 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng.

Tạm thời chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền cản trở. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì quyền lợi của con chung, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con hoặc yêu cầu việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị H xác định không có nên không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí:

- Chị Trần Thị H phải chịu 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hônnhân gia đình sơ thẩm. Nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2016/0009686 ngày 03 tháng 5 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đất Đỏ. Chị H đã nộp đủ tiền án phí.

- Anh Võ Minh T không phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 41/2018/HNGĐ-ST ngày 27/09/2018 về ly hôn

Số hiệu:41/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;