Bản án 41/2017/HSST ngày 11/09/2017 về tội giết người và hiếp dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 41/2017/HSST NGÀY 11/09/2017 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI VÀ HIẾP DÂM

Ngày 11 tháng 9 năm 2017 tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 30/2017/HSST ngày 25/7/2017 đối với bị cáo:

Võ Văn Th, sinh ngày 27 tháng 10 năm 1989. Giới tính; Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu tH trú: Thôn XK, xã QX, huyện QT, tỉnh Quảng Bình. Trú tại: Tổ 19, KV5, phường TX, Thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 06/12; Nghề nghiệp: Thợ đúc đồng. Tiền án, tiền sự: Không; Con ông Võ Xuân T (chết); Con bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm: 1958; Gia đình có 05 anh em ruột, bị cáo Th là con thứ ba trong gia đình; Vợ con: Chưa có. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/02/2017. Có mặt tại phiên toà.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Đình Huy - Luật sư của Văn phòng Luật sư Tín Hữu, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.

* Người bị hại: Bà Phan Thị H, sinh năm 1963 (đã chết).

* Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Chị Phan Thị Thu H, sinh năm 1985 (là con đẻ của bà Phan Thị H). Trú tại: Tổ 18, khu vực 5, phường TX, Thành phố H. Có mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1959. Trú tại: Thôn XK, xã QX, huyện QT. Vắng mặt.

2. Bà Võ Thị H, sinh năm 1982. Trú tại: Thôn XK, xã QX, huyện QT. Có mặt.

* Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1954. Nơi Đăng ký hộ khẩu thường trú: 314/7 BTX, phường PĐ, Thành phố H.Trú tại: Tổ 19, khu vực 5 Phường TX, Thành phố H. Có mặt.

2. Bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1955. Trú tại: Tổ 19, khu vực 5 phường TX, Thành phố H. Vắng mặt.

3. Anh Nguyễn Duy T, sinh năm 1971. Trú tại: Tổ 01, khu vực 01 phường TX, Thành phố H. Vắng mặt.

4. Anh Hoàng Trọng Th, sinh ngày 1969. Trú tại: Tổ 15, TT phường TB, Thành phố H. Vắng mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Võ Văn Th bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Võ Văn Th là thợ đúc đồng thuê cho ông Nguyễn Văn T - sinh năm 1954, trú tại: 314/7 đường Bùi Thị Xuân, phường Đ, Thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Quá trình làm thuê, Th ở lại xưởng đúc đồng (xưởng mang tên Nguyễn Văn T B) đóng tại: Tổ 19, KV5, Phường TX, Thành phố H. Tại đây, cùng ở với Th còn có bà Phan Thị H, sinh năm 1963 và ông Phan Văn Đ, sinh năm 1965 (đang bị bệnh tâm thần) là em bên vợ của ông T.

Khoảng 21 giờ 20 phút ngày 04 tháng 02 năm 2017, sau khi ăn uống tại nhà của ông Nguyễn Văn T, Th điều khiển xe máy về đến cơ sở đúc đồng. Th để xe máy ở ngoài sân rồi đi vào nhà, cởi áo mặc quần đùi ra sửa chữa vòi nước bị hỏng ở nhà tắm sau đó đi vào nhà. Lúc này, ông Phan Văn Đ đang nằm một mình, bà Phan Thị H đang ngồi trên ghế kê sát trên đầu giường ngủ. Th và bà H nói chuyện qua lại về chiếc vòi nước ở nhà tắm đã bị gãy trước đó một lúc, rồi bà H đứng dậy lên giường của mình bỏ màn xuống và đắp chăn nằm ngủ. Võ Văn Th đứng dậy đi đến ngồi lên trên mép phía ngoài giường bà H nhờ gãi lưng cho Th. Lúc này, Th nảy sinh ý định muốn quan hệ tình dục nên đã dùng tay trái chụp vào hông kéo mạnh làm bà H ngã ngửa trên giường nhưng bị bà H phản ứng chống trả. Th dùng chân trái đè chặt ép hai chân bà H vào phía tường nhà, tay trái Th cầm giữ tay phải, tay phải bịt, đè vào vùng mũi, miệng không cho bà H kêu la và dùng miệng cắn vào vú phải của bà H. Bà H vùng vẫy chống cự, dùng tay cào vào người Th và la lên: “ Đồ khốn nạn…”. Th liền lấy chiếc chăn vải ở trên giường cầm bằng hai tay đè chặt vào vùng mũi, miệng của bà H theo chiều hướng từ trên xuống dưới (khoảng 10 - 15 phút). Đến khi thấy bà H nằm im bất động không còn phản kháng, chống cự Th bỏ tay ra rồi kéo quần lững, quần lót của bà H về phía dưới bàn chân, sờ mó vào âm đạo bà H. Th ở tư thế ngồi quỳ ở phía dưới chân của bà H, Th dùng tay đưa hai chân bà H lên, tự kéo quần đùi của mình xuống, đưa dương vật vào trong âm đạo và thực hiện hành vi giao cấu được một lúc thì xuất tinh vào trong âm đạo bà H. Thực hiện xong hành vi giao cấu, Th đứng dậy kéo quần mình lên, kéo và chỉnh sửa lại áo quần, đắp chăn lên người của bà H, tạo tư thế như đang ngủ rồi đi về phản gỗ nằm ngủ với ông Phan Văn Đ.

Sáng ngày 05 tháng 02 năm 2017 Th dậy và đi uống cà phê đến khoảng 07 giờ thì quay về, biết bà H đã chết nên hoảng sợ gọi bà Nguyễn Thị Q (T) sinh năm 1955 là hàng xóm, ở đối diện cở sở đúc đồng Nguyễn Văn T B qua xem. Bà Q đã gọi điện thoại cho ông T và Công an phường trình báo lại sự việc.

* Về hiện trường vụ án: là nhà bà Phan Thị H thuộc Tổ 19, Khu vực 5, phường TX, Thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tại hiện trường đã phát hiện và thu giữ 01 chiếu nhựa màu đỏ trắng vàng; 01 chăn vải ca rô nhiều màu; 01 gối xám xanh trắng. Khám nghiệm tử thi thu giữ mẫu máu, mẫu móng tay, dịch âm đạo, mẫu mô và áo quần của nạn nhân. Thu giữ áo quần, mẫu tóc, móng tay của Võ Văn Th.

Ngày 05 tháng 2 năm 2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế ra quyết định trưng cầu giám định số 21/PC45 trưng cầu Trung tâm giám định pháp Y tỉnh Thừa Thiên Huế giải phẩu tử thi, xác định nguyên nhân chết của nạn nhân Phan Thị H. Xác định vật gây vết trên người nạn nhân, chiều hướng, cơ chế hình thành dấu vết, xét nghiệm mô bệnh học: Não; Tim; Phổi; Gan; Thận; Thượng Thận; Thanh khí quản nạn nhân Phan Thị H.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 44 - 17/TT, ngày 08 tháng 02 năm 2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận:

* Dấu hiệu chính qua giám định: Ngạt cơ học do bị chèn ép vào vùng mũi, miệng/ Đa tổn thương xây xát nông đầu mặt ngực/ chạm thương âm hộ.

* Nguyên nhân chết: Ngạt cơ học do bị chèn ép vùng mũi miệng.

* Kết luận khác:

- Thời gian chết: khoảng ngoài 12 giờ đến dưới 15 giờ so với thời điểm khám nghiệm (vào khoảng 22 giờ đêm 04 tháng 2 năm 2017). Khoảng dưới 01 giờ so bữa ăn cuối cùng.

- Dấu vết cơ chế hình thành tổn thương:

+ Vùng đầu: Vết xây xát ở vùng chẩm trái hình thành do tác động với diện tày, rộng xô xảm. Các vết bầm tím trong da đầu ở vùng đỉnh, và vùng trái thái dương do tác động của vật tày với lực không lớn. Các tổn thương vùng đầu là tổn thương nông và không gây chết.

+ Vùng mặt có hai loại hình tổn thương:

Tổn thương mặt phải là tổn thương xây xát do tỳ, ép, ma sát với mặt nền xô xảm. Tổn thương quanh môi miệng và lợi do tỳ ép với diện tày tạo nên, chính tổn thương này đã đè ép gây bít tắc đường thở dẫn đến tử vong. Nó phù hợp với kết quả mô bệnh học cho thấy nạn nhân bị ngạt chậm nên đã làm phù các tạng.

Tổn thương vùng mặt trái là tổn thương xước da nông do vật tày có cạnh nhỏ phù hợp với vết móng tay.

+ Các tổn thương bầm tím vùng nách, quanh ngực phải, thượng vị trái do vật tày tác động theo kiểu tỳ ép.

Tổn thương quanh núm vú phải có hình O Van phù hợp với kết quả điều tra do đối tượng dùng răng cắn.

+ Có tổn thương do vật tày đụng chạm vào âm hộ ở giai đoạn cận chết. (Bl: 101-105).

* Giám định dấu vết máu:

Kết luận giám định số 61/GĐ ngày 28 tháng 2 năm 2017, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận:

- Trên chiếc chăn vải ca rô nhiều màu, ở một mặt có vết rách gần sát góc thu tại hiện trường ở vị trí số 01 (ký hiệu M1) gửi giám định có dính máu người, nhóm AB.

- Trên chiếc quần đùi màu xám sọc vàng trên quần có logo câu lạc bộ bóng đá Manchester màu đỏ ghi thu của Võ Văn Th (ký hiệu M2); Trên chiếc áo pull (thun) cổ tròn, màu cam, tay cộc, mặt sau áo có vết màu đen chạy dọc dài khoảng 20cm, rộng 1,5 cm, ghi thu của Võ Văn Th (ký hiệu M3); Trên chiếc quần jean dài màu xanh đậm - bạc trên lưng quần có may một tấm da màu đen ghi chữ “ DOLCE&GABBANA MILANO SINCE 1994”, ghi thu của Võ Văn Th (ký hiệu M4) gửi giám định đều không dính máu.

- Mẫu máu thu của nạn nhân Phan Thị H (ký hiệu N1) gửi giám định thuộc nhóm AB.

- Mẫu máu lỏng ghi thu của đối tượng Võ Văn Th (ký hiệu N2) gửi giám định thuộc nhóm O.

Kết luận giám định số 44/GĐ ngày 20 tháng 2 năm 2017, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận:

- Trên chiếu gối xám - xanh - trắng ghi thu tại hiện trường ở vị trí số 01 (ký hiệu M1); Trên chiếu nhựa màu đỏ - trắng - vàng ghi thu tại hiện trường ở vị trí số 01 (ký hiệu M2); Trên chiếu áo sơ mi màu trắng có cổ, ngắn tay, thu của nạn nhân Phan Thị H trong quá trình khám nghiệm tử thi (ký hiệu M3) gửi giám định đều có dính máu người, nhóm AB.

- Trên chiếu quần đùi lững màu trắng đã cũ, lưng quần có vải hoa văn màu trắng nâu ghi thu của nạn nhân Phan Thị H trong quá trình khám nghiệm tử thi (ký hiệu M4) gửi giám định không dính máu.

* Giám định tinh dịch:

Kết luận giám định số 26/GĐ ngày 06 tháng 02 năm 2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận:

- Chất dịch ghi thu trong âm đạo của nạn nhân Phan Thị H (ký hiệu M1) gửi giám định có phát hiện dấu vết tinh dịch và tìm thấy xác tinh trùng người với số lượng 2-3 con/vi trường/một giọt cặn/tiêu bản.

- Trên chiếc quần lót màu hồng đã cũ, có viền màu trắng ghi thu của nạn nhân Phan Thị H (ký hiệu M2) gửi giám định không phát hiện dấu vết tinh dịch và không tìm thấy xác tinh trùng người.

* Giám định ADN:

Kết luận giám định số 78/C54 (Đ5) ngày 21 tháng 02 năm 2017 của Phân viện Khoa học Hình sự tại Thành Phố Đà Nẵng kết luận:

- Trong mẫu dịch âm đạo của nạn nhân Phan Thị H (ký hiệu M1) có tinh trùng của Võ Văn Th.

- Trên móng tay thu của nạn nhân Phan Thị H (ký hiệu M2) có dính tế bào của Võ Văn Th.

- Trên móng tay thu của đối tượng Võ Văn Th (ký hiệu M3) không có tế bào của Phan Thị H.

* Giám định tâm thần:

Ngày 03 tháng 5 năm 2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 43/PC45 trưng cầu Trung tâm pháp Y tâm thần khu vực miền Trung giám định tâm thần đối với bị can Võ Văn Th.

Kết luận giám định số 362/KLGĐTC ngày 13 tháng 6 năm 2017 của Trung tâm pháp Y tâm thần khu vực miền Trung kết luận:

* Trước thời điểm gây án:

a. Về mặt Y học: Hội chứng sau chấn động não, mức độ suy nhược chấn thương (F07.2) + hội chứng nghiện rượu, sử dụng liên tục (F10.25).

b. Về mặt pháp luật: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

* Tại thời điểm gây án:

a. Về mặt Y học: Hội chứng sau chấn động não, mức độ suy nhược chấn thương (F07.2) + hội chứng nghiện rượu, sử dụng liên tục (F10.25).

b. Về mặt pháp luật: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

* Tại thời điểm hiện tại:

a. Về mặt Y học: Hội chứng sau chấn động não, mức độ suy nhược chấn thương (F07.2) + hội chứng nghiện rượu, hiện đang cai, nhưng ở môi trường được bảo vệ (F10.21).

Đề nghị điều trị ngoại trú.

b. Về mặt pháp luật: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

- Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại đã có đơn đề nghị đền bù các khoản dân sự trong vụ án, tổng cộng là 155.000.000đ (Một trăm năm mươi lăm triệu đồng). Hiện gia đình bị can đã bồi tH số tiền 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng). Phần dân sự còn lại, đại diện gia đình bị hại đề nghị Toà tuyên theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 13/QĐ-KSĐT ngày 24/7/2017, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã truy tố bị cáo Võ Văn Th về tội “Giết người” theo quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 93 và tội “Hiếp dâm” theo quy định tại Khoản 1, Điều 111 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Võ Văn Th từ 14 đến 15 năm tù về tội “Giết người”; từ 4 đến 4 năm 6 tháng tù về tội “Hiếp dâm”. Hình phạt chung bị cáo Võ Văn Th phải chấp hành là từ 18 đến 19 năm 6 tháng tù.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Võ Văn Th đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt bị cáo do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, như: khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi; quá trình điều tra bị cáo đã khai báo thành khẩn; có thái độ ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động gia đình bồi tH một phần thiệt hại cho gia đình bị hại; bị cáo là lao động chính trong gia đình, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác;

XÉT THẤY

Tại phiên toà bị cáo Võ Văn Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận:

Tối ngày 04/02/2017 sau khi ăn, uống bia tại nhà của ông Nguyễn Văn T tại 314/7 đường BTX, phường Đ, Thành phố H, đến khoảng 21h 20 phút cùng ngày Th về đến nơi ở của mình tại Tổ 19, KV5, phường TX, Thành phố H. Tại đây, Th đã nảy sinh ý muốn quan hệ tình dục với bà Phan Thị H nên đã dùng tay trái chụp vào hông bà H kéo mạnh làm bà H nằm ngã ngửa xuống giường, rồi với tư thế ngồi quỳ Th dùng chân trái đè chặt hai chân bà H vào phía tường nhà, tay trái Th cầm giữ tay phải, tay phải bịt, đè vào vùng mũi, miệng không cho bà H kêu la và dùng miệng cắn vào vú phải của bà H. Bà H vùng vẫy chống cự, dùng tay cào vào người Th và la lên: “ Đồ khốn nạn…”. Th liền lấy chiếc chăn vải ở trên giường cầm bằng hai tay đè chặt vào vùng mũi, miệng của bà H theo hướng từ trên xuống dưới (khoảng 10 - 15 phút). Đến khi thấy bà H nằm im bất động không còn phản kháng, chống cự Th bỏ tay ra rồi kéo quần lững, quần lót của bà H về phía dưới bàn chân, sờ mó vào âm đạo bà H. Th ở tư thế ngồi quỳ ở phía dưới chân, dùng tay kéo quần lững, quần lót của bà H tụt xuống rồi đưa dương vật vào trong âm đạo của bà H thực hiện hành vi giao cấu được một lúc thì xuất tinh vào trong âm đạo của bà H. Trung tâm pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận: nguyên nhân chị H chết do ngạt cơ học do bị chèn ép vùng mũi, miệng.

Hội đồng xét xử có cơ sở để kết luận rằng, chính bị cáo Võ Văn Th đã dùng chiếc chăn vải ở trên giường cầm bằng hai tay đè chặt vào vùng mũi miệng của bà H theo hướng từ trên xuống dưới (khoảng 10 - 15 phút) đến khi bà H nằm bất động dẫn đến ngạt thở và chết để thực hiện hành vi giao cấu.

Hành vi nêu trên của Võ Văn Th là đặc biệt nghiêm trọng, đã tước đoạt tính mạng của bà Phan Thị H nhằm thực hiện hành vi giao cấu nên thuộc trường hợp “để thực hiện tội phạm khác”. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế truy tố bị cáo Võ Văn Th về tội “Giết người” theo Điểm g Khoản 1 Điều 93 của Bộ luật Hình sự và tội “Hiếp dâm” theo Khoản 1 Điều 111 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét về tội “Giết người”:

Hành vi phạm tội giết người của bị cáo Võ Văn Th là đặc biệt nghiêm trọng. Để thực hiện ý định giao cấu trái với ý muốn của bà Phan Thị H, Võ Văn Th đã có hành vi dùng vũ lực bịt mũi, miệng đè chặt ép hai chân và dùng chăn đè vào vùng mặt đã làm chị H chết ngạt. Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự liều lĩnh, trắng trợn, có tính hung hãn, quyết liệt cao độ, xem tH pháp luật.

Xét về tội “Hiếp dâm”:

Bị cáo Võ Văn Th là người có nhận thức, chỉ do uống bia dùng chất kích thích mà Th không kiềm chế dục vọng của bản thân đã nảy sinh ý định quan hệ tình dục với bà Phan Thị H. Mặc dù bị hại đã chông cự, vùng vẫy, la hét nhưng Th vẫn bất chấp để thỏa mãn thú tính trong người mình. Hành vi phạm tội của bị cáo không những đã xâm hại đến tính mạng, tâm lý, danh dự, nhân phẩm của bà Phan Thị H, gây mất trật tự trị an tại địa phương, mà còn xâm phạm đến nền tảng đạo Đ xã hội, thuần phong mỹ tục của dân tộc.

Vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Bị cáo phạm cùng một lúc hai tội, hành vi giết người thể hiện sự liều lĩnh, quyết liệt, có tính hung hãn, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, trị an xã hội; gây bất bình, phẫn nộ trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần phải được xử lý thích đáng nhằm trừng trị bị cáo và răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét cho bị cáo là khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi, quá trình điều tra bị cáo đã có thái độ ăn năn hối cải, khai báo thành khẩn, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho gia đình bị hại. Vì vậy, cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các Điểm b, n, p Khoản 1, Khoản 2, Điều 46 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

*Về trách nhiệm dân sự:

- Về khoản tiền chi phí mai táng: Đại diện hợp pháp của người bị hại không liệt kê chi tiết các khoản chi phí mà chỉ yêu cầu bồi thường chung 155.000.000 đồng, có bảng kê chi phí kèm theo, nhưng không cung cấp hóa đơn, chứng từ liên quan đến chi phí. Xét thấy, cần chấp nhận mức chi phí mai táng một đám tang bình quân tại địa phương với mức 60.000.000đồng là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Về khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm hại: Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây đau buồn, thương tiếc, tổn thương tinh thần rất lớn đối với gia đình của người bị hại. Phía gia đình của người bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho con của bị hại. Yêu cầu của đại diện hợp pháp của người bị hại là chính đáng, hợp lý, đúng quy định của pháp luật, cần được chấp nhận. Buộc bị cáo phải bồi thường cho bà Phan Thị Thu H (là người đại diện hợp pháp của bà Phan Thị H) khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần với mức 60.000.000 đồng là đúng quy định pháp luật, phù hợp với điều kiện và khả năng của bị cáo.

Tổng cộng 02 khoản buộc Võ Văn Th phải bồi thường 120.000.000 đồng, được trừ số tiền gia đình bị cáo đã bồi thường thay 15.000.000 đồng, bị cáo còn phải bồi thường 105.000.000 đồng.

*Về xử lý vật chứng: Các loại vật chứng gồm:

- 01 chiếu nhựa màu đỏ-trắng-vàng; 01 áo sơ mi màu trắng có cổ tay ngắn thu của nạn nhân; Một quần đùi lững màu trắng đã cũ, lưng quần có vãi hoa màu trắng nâu ghi thu của nạn nhân; 01 chăn vải ca rô nhiều màu, ở một mặt có vết rách gần sát góc thu tại vị trí số 01 trong quá trình khám nghiệm hiện trường; 01 chiếc quần lót màu hồng đã cũ có viền trắng thu của nạn nhân;

- 01 quần đùi màu xám sọc vàng trên quần có lo go câu lạc bộ bóng đá Manchester màu đỏ ghi thu của bị cáo; Một áo pull cổ tròn, màu cam tay cộc, mặt sau áo có vết màu đen chạy dọc dài khoảng 20cm, rộng 1,5cm của bị cáo; 01 quần jean dài màu xanh đậm - bạc trên lưng quần có may một tấm da màu đen ghi chữ “ DOLCE&GABBANA MILANO SINCE 1994” của bị cáo;

- Mẩu máu thu của nạn nhận Phan Thị H đã qua giám định; mẩu máu thu của bị cáo Võ Văn Th đã qua giám định; một chiếc gối xám-xanh-trắng thu tại vị trí số 1 trong quá trình khám nghiệm hiện trường; một vòi nước bằng kim loại bị gãy có gắn một ống nhựa màu hồng; 02 tấm kính ghi chữ dịch âm đạo đã qua giám định; 01 túi đựng mẫu móng tay của đối tượng Võ Văn Th đã qua giám định; 01 túi đựng mẫu móng tay của Phan Thị H đã qua giám định; 01 túi đựng mẫu dịch âm đạo ghi thu của Phan Thị H đã qua giám định; 01 túi đựng mẩu tóc của Võ Văn Th đã qua giám định; 01 túi đựng mẩu máu ghi thu của Phan Thị H đã qua giám định; 01 vòi nước bằng kim loại bị gãy có gắn một ống nhựa màu hồng.

Xét thấy không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ.

(Các loại vật chứng trên hiện đang được tạm giữ tại Chi Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế, theo Quyết định chuyển vật chứng số 10/KSĐT ngày 24/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế).

*Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định. Về án phí dân sự, bị cáo phải chịu trên số tiền còn phải bồi thường, cụ thể: 105.000.000 đồng x 5% = 5.250.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Võ Văn Th phạm hai tội “Giết người” và “Hiếp dâm”.

Áp dụng Điểm g Khoản 1 Điều 93; Khoản 1, Điều 111; Điểm b, n, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: bị cáo Võ Văn Th 16 năm 6 tháng tù về tội “Giết người”; 4 năm 6 tháng tù về tội “Hiếp dâm”.

Áp dụng khoản 1 Điều 50 của Bộ luật Hình sự;

Tổng hợp hình phạt của 02 tội, buộc bị cáo Võ Văn Th phải chấp hành hình phạt chung là 21 (hai mươi mốt) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 05/02/2017.

* Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng Điều 42 của Bộ luật Hình sự; Điều 610; Điều 612 của Bộ luật Dân sự, tuyên xử:

1. Buộc bị cáo Võ Văn Th phải bồi thường cho bà Phan Thị Thu H (là người đại diện hợp pháp của bà Phan Thị H) 120.000.000 đồng chi phí mai táng và khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần, được trừ số tiền gia đình bị cáo đã bồi thường thay 15.000.000 đồng, bị cáo còn phải bồi thường 105.000.000 đồng.

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự; Tịch thu tiêu huỷ:

- 01 chiếu nhựa màu đỏ-trắng-vàng; 01 áo sơ mi màu trắng có cổ tay ngắn thu của nạn nhân; Một quần đùi lững màu trắng đã cũ, lưng quần có vãi hoa màu trắng nâu ghi thu của nạn nhân; 01 chăn vải ca rô nhiều màu, ở một mặt có vết rách gần sát góc thu tại vị trí số 01 trong quá trình khám nghiệm hiện trường; 01 chiếc quần lót màu hồng đã cũ có viền trắng thu của nạn nhân;

- 01 quần đùi màu xám sọc vàng trên quần có lo go câu lạc bộ bóng đá Manchester màu đỏ ghi thu của bị cáo; Một áo pull cổ tròn, màu cam tay cộc, mặt sau áo có vết màu đen chạy dọc dài khoảng 20cm, rộng 1,5cm của bị cáo; 01 quần jean dài màu xanh đậm - bạc trên lưng quần có may một tấm da màu đen ghi chữ “ DOLCE&GABBANA MILANO SINCE 1994” của bị cáo.

- Mẩu máu thu của nạn nhận Phan Thị H đã qua giám định; mẩu máu thu của bị cáo Võ Văn Th đã qua giám định; một chiếc gối xám-xanh-trắng thu tại vị trí số 1 trong quá trình khám nghiệm hiện trường; một vòi nước bằng kim loại bị gãy có gắn một ống nhựa màu hồng; 02 tấm kính ghi chữ dịch âm đạo đã qua giám định; 01 túi đựng mẫu móng tay của đối tượng Võ Văn Th đã qua giám định; 01 túi đựng mẫu móng tay của Phan Thị H đã qua giám định; 01 túi đựng mẫu dịch âm đạo ghi thu của Phan Thị H đã qua giám định; 01 túi đựng mẩu tóc của Võ Văn Th đã qua giám định; 01 túi đựng mẩu máu ghi thu của Phan Thị H đã qua giám định.

(Các loại vật chứng trên hiện đang được tạm giữ tại Chi Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế, theo Quyết định chuyển vật chứng số 10/KSĐT ngày 24/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế).

*Về án phí: Bị cáo Võ Văn Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm; 5.250.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chưa thi hành các khoản tiền nói trên thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu thêm một khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất do hai bên thỏa T nhưng không được vượt quá 20%/năm; nếu không có thỏa T thì theo mức lãi suất 10%/năm tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa T thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án sơ thẩm xét xử công khai, báo cho bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1419
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 41/2017/HSST ngày 11/09/2017 về tội giết người và hiếp dâm

Số hiệu:41/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;