TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HÒA, TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 41/2017/HSST NGÀY 07/09/2017 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Hôm nay, vào lúc 14 giờ 00 ngày 07 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên mở phiên toà công khai để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 20/2017/HSST ngày 17 tháng 4 năm 2017 đối với bị cáo:
Nguyễn Quang T – sinh năm: 1990; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn P, xã X, huyện Đ, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Nuôi tôm; trình độ văn hoá: 6/12; con ông Nguyễn T – sinh năm: 1964 và bà Nguyễn Thị N – sinh năm: 1964 (chết); Tiền án, Tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại bỏ trốn, truy nã không có kết quả, vắng mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại: ông Phan Vĩnh P – sinh năm: 1976
Nơi cư trú: thôn M, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên, vắng mặt.
NHẬN THẤY
Bị cáo Nguyễn Quang T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hoà truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 15 giờ ngày 12/02/2017, Nguyễn Văn T (là người nuôi tôm cho ông Phan Vĩnh P) hỏi mượn xe mô tô 78G1- 181.82 của ông Phan Vĩnh P do anh Phan Tấn K (cháu của P) đang quản lý để đi thành phố T mua đồ cá nhân. Vì tin tưởng nên anh K cho T mượn xe. T điều khiển xe đến đoạn đường Hùng Vương thuộc thôn M, xã H, huyện Đ thì nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe của ông P nên đã điều khiển xe đến huyện P, tỉnh Bình Định tìm người tiêu thụ thì bị Công an huyện P phát hiện tạm giữ xe, chuyển giao cho Công an huyện Đông Hòa xử lý theo thẩm quyền.
Theo bản kết luận giá trị tài sản ngày 22/2/2017 của Hội đồng định giá UBND huyện Đ kết luận: tại thời điểm xảy ra vụ án xe mô tô 78G1- 181.82 có giá trị 10.200.000 đồng.
* Vật chứng vụ án: Xe mô tô biển số 78G1- 181.82, đã trả lại cho chủ sở hữu.
* Về dân sự: ông Phan Vĩnh P không yêu cầu gì thêm.
Tại bản cáo trạng số 22/VKS-HS ngày 14/4/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hoà truy tố bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự.
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ tại hồ sơ: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố.
Kiểm sát viên luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 140; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T từ 06 đến 09 tháng tù, thời gian tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Vật chứng vụ án: Xe mô tô 78G1- 181.82 đã trả lại cho chủ sở hữu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên;
XÉT THẤY
Lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ ngày 12/02/2017, Nguyễn Quang T đã có hành vi mượn xe mô tô biển số 78G1- 181.82 của ông Phan Vĩnh P, rồi chiếm đoạt của ông P xe mô tô biển số 78G1- 181.82 trị giá 10.200.000đ.
Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hoà truy tố là có căn cứ.
Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân và gây mất trật tự trị an ở địa phương. Bị cáo là người có sức khỏe, có công việc làm ổn định nhưng không chịu lao động để có thu nhập chính đáng hợp pháp mà lợi dụng chỗ quen biết và lòng tin của ông P để mượn xe mô tô. Sau khi nhận xe mô tô, bị cáo đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của ông P nên đã điều khiển xe đến huyện P, tỉnh Bình Định tìm người tiêu thụ. Hành vi chiếm đoạt tài sản của bị cáo đã hoàn thành.
Sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, nhận thấy lỗi lầm, tỏ ra ăn năn hối cải. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã thu giữ được và trả lại cho người bị hại. Với tính chất mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo, lẽ ra không cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội nhưng sau khi phạm tội, mặc dù có lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng bị cáo đã bỏ trốn. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đông Hòa đã truy nã nhưng không có kết quả. Vì vậy, bị cáo không đủ điều kiện để được hưởng án treo. Do đó cần xử bị cáo mức án nghiêm cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian để đảm bảo tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng. Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật Nhà nước mà yên tâm cải tạo.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xét.
Về vật chứng vụ án: Xe mô tô biển số 78G1 – 181.82 đã trả lại cho chủ sở hữu nên không xét
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 140; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T 03 (ba) tháng tù, thời gian tù tính từ ngày bắt thi hành án
* Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức án phí lệ phí tòa án, bị cáo Nguyễn Quang T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 41/2017/HSST ngày 07/09/2017 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 41/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Đông Hòa - Phú Yên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về