Bản án 407/2019/HS-ST ngày 23/11/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 407/2019/HS-ST NGÀY 23/11/2019 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 23 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 386/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 412/2019/QDXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 211/2019/HSST- QĐ ngày 19 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Đặng Quang M, sinh năm 1976 tại tỉnh Tây Ninh; thường trú: Ấp Ph Th, xã Ph V, huyện Ch Th, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Đặng Văn T (đã chết) và bà Trần Thị S, sinh năm 1947; bị cáo có 04 em ruột, lớn nhất sinh năm 1979, nhỏ nhất sinh năm 1989; bị cáo có vợ tên Lương Trinh Bích Tr (đã ly hôn), có 02 con ruột, lớn sinh năm 1996, nhỏ sinh năm 2003; tiền án: Ngày 07/7/2004 bị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xử phạt 03 năm tù về tội Buôn lậu, chấp hành xong hình phạt ngày 28/4/2005, chưa nộp tiền thu lợi bất chính 650.000 đồng; tiền sự: Ngày 02/3/2017, bị Tòa án nhân dân huyện T Ch, tỉnh Tây Ninh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, chấp hành xong Quyết định ngày 20/5/2019; nhân thân: Ngày 26/12/2012 bị Chủ tịch UBND thị xã T Ch, tỉnh Tây Ninh ra Quyết định đưa vào trường cai nghiện bắt buộc, chấp hành xong Quyết định ngày 11/9/2014; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13/7/2019 cho đến nay, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Ngô Văn B, sinh năm 1990; thường trú: Thôn N, xã Đ Kh, huyện T L, tỉnh Bình Thuận; vắng mặt.

2. Bà Phạm Thị Ng, sinh năm 1980; thường trú: Số 123, tổ B, ấp T Tr, xã T H, huyện T Ch, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

3. Ông Phạm Văn C, sinh năm 1985; thường trú: Tổ B, ấp Tr Tr, xã T H, huyện T Ch, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt

4. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1980; địa chỉ: Số 88A đường A D V, Phường H, Thành phố Đ L, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17 giờ ngày 12/7/2019, Đặng Quang M đang ở phòng trọ tại Phường H, thành phố T N, tỉnh Tây Ninh thì có đối tượng tên K (chưa rõ nhân thân, lai lịch) đến chơi và mang theo 02 biển số xe mô tô 70K1-527.58, 70K1- 486.90, 01 cây tuýp mở khóa 10, 01 chìa khóa xe mô tô. K nói với M “Tôi mua xe không có giấy tờ, tối nay ông đi chạy xe từ S G về huyện T Ch, tỉnh Tây Ninh cho tôi, bán có lời tôi cho ông 1.000.000 đồng xài”. Nghe vậy, M hiểu là K mua xe của người khác phạm tội mà có và thuê M điều khiển về huyện T Ch, tỉnh Tây Ninh cho K thì M đồng ý. Sau đó, K đưa cho M 02 biển số xe mô tô 70K1-527.58, 70K1-486.90, 01 cây tuýp mở khóa 10, 01 chìa khóa xe mô tô và hẹn ngày hôm sau sẽ đi Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện công việc như đã bàn bạc.

Khong 02 giờ ngày 13/7/2019, K đến phòng trọ của M kêu M cùng đi đến Thành phố Hồ Chí Minh nhận xe mô tô. M đem theo 02 biển số xe mô tô 70K1- 527.58, 70K1-486.90, 01 cây tuýp mở khóa 10, 01 chìa khóa xe mô tô. Cả hai đón xe đến bến xe A S thuộc huyện H M, Thành phố Hồ Chí Minh, rồi đón xe buýt đến trước khu vực Trường đại học K t L thuộc phường L X, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh thì xuống xe. K gọi cho ai đó thông báo đã đến nơi, rồi cả hai ngồi đợi. Khoảng 15 phút sau có 01 thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) đi xe mô tô hiệu Dream đến chở K và M đến đường số B thuộc khu phố H, phường L X, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây cả ba ngồi đợi khoảng 15 phút thì có 01 thanh niên khác (không rõ nhân thân, lai lịch) điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 49B1-679.18, trên xe đã gắn sẵn 01 chìa khóa để ngụy trang. K kêu M điều khiển xe này về huyện T Ch, tỉnh Tây Ninh và dặn khi nào đến đoạn đường vắng thì thay biển số mà K đã đưa để tránh bị phát hiện.

M điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 49B1-679.18 theo Quốc lộ 1A hướng từ Th Đ đi A S. Khoảng 05 giờ 30 phút cùng ngày, khi M điều khiển xe mô tô nói trên đi trên Quốc lộ 1A thuộc tổ HT, khu phố B Đ 1, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng tuần tra Công an phường A B nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 49B1-679.18 ổ khóa bị cạy phá, trong túi xách của M có 02 biển số xe mô tô 70K1-527.58, 70K1-486.90, 01 cây tuýp mở khóa 10, 01 chìa khóa xe mô tô nên mời về trụ sở làm việc. Tại Công an phường, Đặng Quang M đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Qua xác minh xác định: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 11/7/2019, ông Ngô Văn B điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 49B1-679.18 đến chợ H Kh thuộc thôn H, xã H Kh, huyện T L, tỉnh Bình Thuận để mua đồ. Khi đến đây, ông B để xe ngoài đường rồi đi vào chợ mua đồ thì bị mất trộm. Ông B đến Công an xã H Kh trình báo sự việc. Ngày 14/7/2019, Công an huyện T L, tỉnh Bình Thuận khởi tố vụ án và tiến hành hoạt động điều tra theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 49B1-679.18, 02 (hai) biển số xe mô tô 70K1-527.58, 70K1-486.90, 01 (một) cây tuýp mở khóa 10, 01 (một) chìa khóa xe mô tô và 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 2730 màu xanh, sim số 0343044763.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số: 162/BB.ĐG ngày 22/7/2019 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An kết luận: 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 49B1-679.18, có trị giá 10.000.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, không có ý kiến hay khiếu nại gì Kết luận định giá tài sản số: 162/BB.ĐG ngày 22/7/2019 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Đi với đối tượng tên K yêu cầu M điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 49B1-679.18 về huyện T Ch, tỉnh Tây Ninh để tiêu thụ và 02 thanh niên liên lạc để đưa xe cho K và M, hiện không rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Đi với vụ Trộm cắp xảy ra tại thôn H, xã H Kh, huyện T L, tỉnh Bình Thuận. Ngày 14/7/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T L khởi tố điều tra theo thẩm quyền.

Đi với biển số mô tô 70K1-527.58 là do bà Phạm Thị Ng đứng tên đăng ký, bà Ng bán xe cho người khác không rõ nhân thân, lai lịch và đối với biển số xe mô tô 70K1-486.90 do ông Phạm Văn C đứng tên đăng ký, hiện ông C làm gì ở đâu không rõ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A chưa làm việc được. Đối với người quản lý sử dụng xe mô tô biển số 70K1-527.58 và ông Phạm Văn C, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Cáo trạng số: 405/CT - VKS ngày 30 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố Đặng Quang M về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Đặng Quang M về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Đặng Quang M từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng.

* Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 49B1- 679.18, hiện đã thu hồi đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Ngô Văn Bi nên không đặt ra xem xét.

- Đối với 02 (hai) biển số xe mô tô 70K1-527.58, 70K1-486.90, 01 (một) cây tuýp mở khóa 10, 01 (một) chìa khóa xe mô tô và sim số 0343044763 là công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 2730 màu xanh của bị cáo Đặng Quang M sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt và xử lý vật chứng đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Ngày 13/7/2019, theo yêu cầu của người đàn ông tên K (chưa rõ nhân thân, lai lịch) Đặng Quang M nhận xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 49B1-679.18. có giá trị 10.000.000 đồng là tài sản do người khác phạm tội mà có tại địa bàn phường L X, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh về huyện T Ch, tỉnh Tây Ninh cho K, khi M đang điều khiển xe mô tô đến địa bàn phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương thì tổ tuần tra Công an phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương thấy có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra đồng thời yêu cầu M về phường làm việc, tại Công an phường Đặng Quang M đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

[3] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Đặng Quang M biết xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 49B1-679.18 có giá trị 10.000.000 đồng do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn giúp tiêu thụ nhằm thu lợi bất chính, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số: 405/CT-VKS ngày 30 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên truy tố bị cáo Đặng Quang M về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là ít nghiêm trọng nhưng đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Về nhận thức bị cáo hoàn toàn biết hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là trái pháp luật nhưng vì lòng tham, muốn kiếm tiền nhanh chóng không phải lao động để phục vụ nhu cầu bản thân mà bị cáo cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án về tội Buôn lậu, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội mới do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn đồng thời sau khi phạm tội bị cáo đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu thể hiện bị cáo có tiền án về tội Buôn lậu chưa được xóa án tích, bị cáo có tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đồng thời là người không có nghề nghiệp, sử dụng trái phép chất ma túy nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, có nhân thân xấu, có tiền án về tội Buôn lậu chưa được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục hành vi phạm tội, bị cáo muốn kiếm tiền nhanh chóng để phục vụ nhu cầu của bản thân mà bị cáo cố tình thực hiện tội phạm, đồng thời bị cáo là người sử dụng trái phép chất ma túy, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

- Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, bị cáo là người không có nghề nghiệp, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Đối với đối tượng tên K yêu cầu M điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 49B1-679.18 về huyện T Ch, tỉnh Tây Ninh để tiêu thụ và 02 thanh niên liên lạc để đưa xe cho K và M, hiện không rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau; đối với vụ Trộm cắp xảy ra tại thôn H, xã H Kh, huyện T L, tỉnh Bình Thuận. Ngày 14/7/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T L khởi tố điều tra theo thẩm quyền và đối với biển số mô tô 70K1-527.58 là do bà Phạm Thị Ng đứng tên đăng ký, bà Ng bán xe cho người khác không rõ nhân thân, lai lịch và đối với biển số xe mô tô 70K1-486.90 do ông Phạm Văn C đứng tên đăng ký, hiện ông C làm gì ở đâu không rõ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A chưa làm việc được. Đối với người quản lý sử dụng xe mô tô biển số 70K1-527.58 và ông Phạm Văn C, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau là đúng theo quy định của pháp luật.

[10] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 49B1- 679.18, hiện đã thu hồi đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Ngô Văn B nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Xét 02 (hai) biển số xe mô tô 70K1-527.58, 70K1-486.90, 01 (một) cây tuýp mở khóa 10, (một) chìa khóa xe mô tô và sim số 0343044763 là công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Xét 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 2730 màu xanh của bị cáo Đặng Quang Mậu sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

[11] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, khung hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đặng Quang M phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Đặng Quang M 01 (một) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 13/7/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 2730 màu xanh, số Imei: 35521805100298518 (không kiểm tra được tình trạng bên trong).

- Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) biển số xe mô tô 70K1-527.58, 70K1-486.90, 01 (một) cây tuýp mở khóa 10, 01 (một) chìa khóa xe mô tô và sim số 0343044763. (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 26/7/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D A với Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An).

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Đặng Quang M phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 407/2019/HS-ST ngày 23/11/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:407/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;