Bản án 405/2020/HS-ST ngày 19/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 405/2020/HS-ST NGÀY 19/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 9 năm 2020 tại Hội trường A Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 384/2020/HSST ngày 03 tháng 9 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 407/2020/QĐXXST-HS ngày 08/9/2020 đối với bị cáo:

Phan Hoài N, sinh năm 1997 tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Xóm 11 xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Phan Văn G, sinh năm 1976 và con bà Phan Thị N, sinh năm 1978, bị cáo có 01 em ; tiền sự, tiền án:

Không có.

Bị cáo bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 30/6/2020, có mặt Bị hại: Chị Mai Thị T, sinh năm 1983; thường trú: 16/40 khu phố C , phường H, Thành phố K, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Dương Văn M, sinh năm 1981; trú tại: Tổ 3 khu phố H, phường K, thị xã U, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

Người làm chứng: Anh Mai Xuân T, sinh năm 1984.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 29/6/2020, bị cáo Phan Hoài N thuê phòng tại nhà nghỉ khu vực phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương để ngủ và sử dụng ma túy. Vào lúc 10 giờ 15 phút ngày 30/6/2020, N đi ngang qua quán bán tạp hóa địa chỉ 558/10A4 khu phố Tân Phú 1, phường Tân Bình, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương gặp 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen biển số 61L2 – 3233 của chị Mai Thị T đang dựng ở phía trước cửa hàng tạp hóa. N đến tiếp cận xe dắt ra ngoài, khi dắt được khoảng 02 mét thì xe va chạm vào cánh cửa kính gây tiếng động, chị T ở trong chạy ra thấy N đang dắt xe mô tô của mình nên truy hô, anh Mai Xuân T là hàng xóm của chị T chạy đến bắt giữ N giao Công an phường Tân Bình lập biên bản phạm tội quả tang đối với bị cáo N Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen biển số 61L2 – 3233, số khung: 103347, số máy: 5C61-103347.

Kết luận định giá tài sản số 113/BB.ĐG ngày 09/7/2020 của Hội đồng định giá thành phố Dĩ An, xác định: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen biển số 61L2 – 3233, số khung: 103347, số máy: 5C61-103347 trị giá 5.500.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại T đã nhận lại xe mô ô bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường gì khác Cáo trạng số 415/CT – VKS ngày 03 tháng 9 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phan Hoài N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo N từ 6 tháng đến 8 tháng tù.

Bị cáo N không tranh luận, bào chữa cho hành vi phạm tội. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo hối hận việc mình đã làm, bị cáo xin được giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của bị cáo Phan Hoài N: Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang ngày 30/6/2020, lời khai bị hại, kết luận định giá tài sản, biên bản lấy lời khai bị cáo N và người làm chứng thể hiện ngày 30/6/2020 bị cáo Phan Hoài N đã lén lút chiếm đoạt xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen biển số 61L2 – 3233 của chị Mai Thị T có trị giá 5.500.000 đồng. Như vậy, hành vi trên của bị cáo N đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 415/CT-VKS ngày 03/9/2020 của Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo N không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Các tình tiết trên được quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo N có nhân thân tốt thể hiện không có tiền án, tiền sự, bị cáo nhất thời phạm tội.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo N phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 03 năm tù, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản hợp pháp của bị hại T trong vụ án được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Mai Thị T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường gì khác. Hội đồng xét xử không xét.

[4] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, mức hình phạt bị cáo N phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[5] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[6] Án phí sơ thẩm: Bị cáo N phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phan Hoài N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Hoài N 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 30/6/2020.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 Bị cáo Phan Hoài N phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 405/2020/HS-ST ngày 19/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:405/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;