TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY ĐỨC, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 40/2020/HS-ST NGÀY 27/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã ĐN, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông mở phiên toà xét xử sơ thẩm lưu động công khai vụ án hình sự thụ lý số: 35/2020/TLST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Hồ Thị M (Hồ Thị M’), sinh năm 1969 tại tỉnh Điện Biên; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản ĐK, xã ĐN, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông; Chỗ ở: Bản TL, xã ĐN, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Nghề nghiệp: làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Tin Lành; con ông Hồ Chớ C (đã chết) và bà Lý Thị Ch; có chồng là Vàng Giảng K (đã chết) và 03 con, lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án: 01 tiền án. Ngày 12/3/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông xử phạt 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngày 04/01/2019 bị cáo chấp hành xong hình phạt; bị bắt tạm giữ từ ngày 12/8/2020, sau đó chuyển tạm giam – có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Mo: Ông Y L và ông Phạm Quang L – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đắk Nông, bào chữa theo yêu cầu của bị cáo – có mặt.
- Người làm chứng:
Chị Thào Thị D, sinh năm 1986 – có mặt.
Địa chỉ: Bản NH, xã ĐN, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồ Thị M (tên gọi khác: Hồ Thị M’, sinh năm 1969), trú tại bản ĐK, xã ĐN, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông là đối tượng nghiện ma túy. Vào các ngày 11/8/2020 và ngày 12/8/2020, Hồ Thị M mua 2.400.000 đồng ma túy của một người đàn ông dân tộc Nùng (không rõ nhân Th lai lịch) tại xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước rồi về chia nhỏ ra thành nhiều gói mục đích để bán lại cho các con nghiện kiếm lời và sử dụng.
Vào lúc 14 giờ ngày 12/8/2020, trong lúc Hồ Thị M đang ở nhà của chị Thào Thị D tại bản TL, xã ĐN, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông thì có Nguyễn Văn Q (sinh năm 1981, trú tại phường N, Tp.GN, tỉnh Đắk Nông) và đối tượng Th (không rõ nhân thân lai lịch) đến hỏi mua 200.000 đồng ma túy về để sử dụng thì được Hồ Thị M đồng ý. Hồ Thị M cầm tiền và lấy trong túi vải màu đen đang đeo ở trên người ra 02 gói nilon màu vàng bên trong có chứa ma túy ra đưa cho Nguyễn Văn Q. Sau đó, Nguyễn Văn Q đưa lại 02 gói ma túy cho Th cầm thì bị lực lượng Công an huyện Tuy Đức phát hiện, bắt giữ Hồ Thị M và Nguyễn Văn Q, còn Th cầm theo 02 gói ma túy trốn thoát.
Thu giữ trên tay của Hồ Thị M 01 gói nilon màu đen và 03 gói nilon màu vàng bên trong đều chứa chất rắn màu trắng nghi là ma túy; Hồ Thị M tự nguyện giao nộp 01 bịch nilon màu đen bên trong có chứa 02 gói nilon màu vàng có chứa chất rắn màu trắng nghi là ma túy và 01 gói nilon màu vàng có chứa chất rắn màu trắng nghi là ma túy; khám xét khẩn cấp nơi ở của Hồ Thị M thu giữ 04 gói nilon màu vàng bên trong chứa chất rắn màu trắng nghi là ma túy (tất cả số tang vật trên đã được niêm phong theo quy định).
Tại bản Kết luận giám định số 126/KLMT-PC09 ngày 20/8/2020, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông đã kết luận:
- Chất rắn màu trắng đựng trong 02 gói nilon màu vàng được niêm phong trong bì thứ nhất gửi giám định đều là ma túy, là Heroine, có tổng khối lượng mẫu là 10,1478 gam (hoàn lại sau giám định là 9,2186 gam);
- Chất rắn màu trắng đựng trong 01 gói nilon màu vàng được niêm phong trong bì thứ hai gửi giám định là ma túy, là Heroine, có khối lượng mẫu là 1,3874 gam (hoàn lại sau giám định là 1,1228 gam);
- Chất rắn màu trắng đựng trong 01 gói nilon màu đen được niêm phong trong bì thứ ba gửi giám định là ma túy, là Heroine, có khối lượng mẫu là 5,5985 gam và Chất rắn màu trắng đựng trong 03 gói nilon màu vàng bỏ trong 01 hộp nhựa màu trắng được niêm phong trong bì thứ ba gửi giám định đều là ma túy, là Heroine, có tổng khối lượng mẫu là 0,2691gam (hoàn lại sau giám định là 5,1730 gam);
- Chất rắn màu trắng đựng trong 04 gói nilon màu vàng được niêm phong trong bì thứ tư gửi giám định là ma túy, là Heroine, có tổng khối lượng mẫu là 0,2259 gam (hoàn lại sau giám định là 0,1564 gam);
Tại phiên tòa, bị cáo Hồ Thị M đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như tại cơ quan điều tra và thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i, q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự là đúng, không oan.
Cáo trạng số: 40/CTr-VKS ngày 06-11-2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức đã truy tố bị cáo Hồ Thị M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hồ Thị M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Đề nghị áp dụng điểm i, q khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hồ Thị M từ 10 năm đến 11 năm tù.
Về vật chứng:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 15,6708 gam ma túy là Heroine (hoàn lại sau giám định);
tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng do Hồ Thị M bán ma túy mà có.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày ý kiến: Việc truy tố, xét xử bị cáo Hồ Thị M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng, không oan. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là do ảnh hưởng của môi trường nơi bị cáo sinh sống có nhiều người nghiện ma túy, địa bàn đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật của bị cáo hạn chế, hoàn cảnh gia đình khó khăn, công việc chính là đi làm thuê. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Bị cáo Hồ Thị M không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuy Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với tài liệu, chứng cứ được thu thập lưu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa và phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận:
Vào các ngày 11/8/2020 và 12/8/2020, Hồ Thị M mua 2.400.000đ ma túy của một người đàn ông dân tộc Nùng (không rõ nhân thân lai lịch) tại xã ĐN, huyện B, tỉnh Bình Phước rồi về chia nhỏ ra thành nhiều gói để sử dụng và bán lại cho các con nghiện khác kiếm lời.
Đến 14 giờ ngày 12/8/2020, tại bản TL, xã ĐN, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông, trong lúc Hồ Thị M đang bán 02 gói ma túy là heroin cho Nguyễn Văn Q và đối tượng Th (không rõ nhân thân lai lịch) với số tiền 200.000đ thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức phát hiện và bắt quả tang, đối tượng tên Th cầm 02 gói ma túy trên bỏ trốn. Ngoài ra, Hồ Thị M còn tự nguyện giao nộp 03 gói ma túy là heroin có trọng lượng là 6,0935gam. Tổng trọng lượng ma túy thu giữ của Hồ Thị Mo là 17,6287gam.
Bị cáo Hồ Thị M đã bị xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, là tội phạm rất nghiêm trọng, chưa được xóa án tích bị cáo lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.
Vì vậy, có đủ căn cứ pháp lý để kết luận bị cáo Hồ Thị M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
- Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
… i) Heroine…có khối lượng từ 05gam đến dưới 30gam;
… q) Tái phạm nguy hiểm”.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo Hồ Thị M thực hiện là rất nghiêm trọng; xâm phạm trực tiếp đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc trao đổi chất ma túy, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy bị Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị nghiêm khắc nhưng do ý thức xem thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Mặt khác, bị cáo đã có tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” khi chấp hành xong hình phạt chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội nên bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt thật nghiêm thì mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; khi bị bắt quả tang bị cáo đã tự nguyện giao nộp ma túy do bị cáo cất giữ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo là người dân tộc thiểu số, không biết chữ, trình độ nhận thức pháp luật hạn chế, hoàn cảnh gia đình khó khăn, sinh sống ở địa bàn có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[5] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo, Hôi đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
[6] Về vật chứng: Căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Đối với 15,6708 gam ma tuý do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông hoàn lại sau giám định, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu để tiêu huỷ.
Đối với số tiền 200.000đ bị cáo Hồ Thị M có được từ việc mua bán ma túy cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[7] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo có điều kiện kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[8 ]Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức là có căn cứ pháp luật.
[9] Đối với người đàn ông dân tộc Nùng (chưa xác định được nhân thân lai lịch) đã bán ma túy cho Hồ Thị M và đối tượng tên Th (không rõ nhân thân lai lịch) đã cầm 02 gói ma túy chạy thoát, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức đang tiếp tục điều tra xác minh khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.
[10] Đối với hành vi của Nguyễn Văn Q mua ma túy của Hồ Thị M về để sử dụng (đối tượng tên Th đã cầm 02 gói ma túy chạy thoát không thu giữ được), Công an huyện Tuy Đức đã xử phạt hành chính là phù hợp, cần chấp nhận.
[11] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án: Xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên cần miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Hồ Thị M (Hồ Thị M’) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm i, q khoản 2 Điều 251; các điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hồ Thị M 11 (Mười một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 12/8/2020.
2. Về vật chứng: Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy: 15,6708 gam ma tuý do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông hoàn lại sau giám định.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) do bị cáo Hồ Thị M phạm tội mà có.
(Đặc điểm của vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/11/2020 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuy Đức).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Hồ Thị M.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 40/2020/HS-ST ngày 27/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 40/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tuy Đức - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về