TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN CHẤN, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 40/2020/HS-ST NGÀY 25/09/2020 VỀ TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI
Ngày 25 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Chấn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 45/2020/HSST ngày 11 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2020/QĐXXST - HS ngày 11 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:
Triệu A P (tên gọi khác: Không), sinh ngày 06/7/1996, tại: huyện V, tỉnh Yên Bái; nơi cư trú: Thôn N, xã N1, huyện V, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Triệu Trung Thêm, sinh năm 1968 và bà Triệu Trị Ch, sinh năm 1975; vợ: Bàn Thị Kh, sinh năm 1999; có 02 con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 17/6/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Yên Bái. Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Hoa, trợ giúp viên pháp lý thuộc Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 1, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Yên Bái. Có mặt.
Bị hại: Bàn A S (đã chết).
Những người Đại diện hợp pháp của bị hại Bàn A S gồm: Ông Bàn Phúc T1, sinh năm 1959 (Bố đẻ); Bà Triệu Thị Ph, sinh năm 1960 (Mẹ đẻ); Bà Lý Thị L, sinh năm 1995 (Vợ); 02 con Bàn Sinh T3, sinh năm 2013 và Bàn Thị M, sinh năm 2016 do bà Lý Thị L đại diện. Những người Đại diện hợp pháp làm ủy quyền cho người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp là anh Bàn Ton P2, sinh năm 2000; Cùng nơi cư trú:
Thôn N, xã N1, huyện V, tỉnh Yên Bái. Có mặt.
*)Những người làm chứng:
- Bàn A P, sinh năm 2000; nơi cư trú:Thôn N, xã N1, huyện V, tỉnh Yên Bái.
Vắng mặt.
- Nguyễn Thị H, sinh năm 1972; nơi cư trú: Thôn T, xã N1, huyện V, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.
- Triệu A C, sinh năm 1993; nơi cư trú:Thôn N, xã N1, huyện V, tỉnh Yên Bái.
Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ ngày 15/6/2020 Triệu A P, Bàn A P và Bàn A S cùng trú tại thôn N, xã N1, huyện V rủ nhau đi săn bắn thú rừng tại khu vực rừng “Ba cây tám” thuộc thôn T, xã N1, huyện V. Khi đi Triệu A P điều khiển xe mô tô của P chở Bàn A P còn Bàn A S một mình điều khiển xe mô tô của S và mỗi người mang theo một khẩu súng tự chế (súng kíp). Tới bờ suối trong rừng, Bàn A S một mình đi theo hướng sang bên kia bờ suối. Trong quá trình đi săn, P tiếp tục tự tách ra đi một mình theo hướng lên rừng chuối còn Pù vẫn ở khu vực bên dưới. Tại khu vực rừng chuối, P ngồi rình quan sát thấy có một vật màu xám đang động đậy trong bụi cây phía bên dưới, cách vị trí của P khoảng 10m, P nghĩ vật màu xám là con sóc nên P đã cầm khẩu súng kíp của mình ngắm, bắn một phát hướng về vật màu xám trên. Bắn xong P nghe thấy tiếng “uỵch” ở vị trí vừa bắn trúng, P nghĩ đã bắn nhầm người hoặc con vật nào to nên bỏ súng xuống và chạy tới xem. Tới nơi P phát hiện đã bán nhầm trúng Bàn A S khiến S đang co giật, vùng đầu của S chảy nhiều máu nên P đã ôm người S và xé miếng vải ở túi áo của P ra để bịt cầm máu đang chảy. Sau đó, thấy S không cử động nữa nên P nghĩ là S đã tử vong. Để che dấu hành vi của mình P cầm khẩu súng của S lên để dựng hiện trường giả là S tự bắn vào người do khẩu súng của S bị cướp cò nhưng do hoảng loạn nên khi kiểm tra nòng súng của S thì bị kẹt nên P vứt lại khẩu súng của S rồi chạy lên vị trí đã ngồi ngắm trước đó. Tại đây, P xé một mảnh giấy trong túi sách của mình để lau bộ phận kíp súng sau đó vứt bỏ lại mảnh giấy trên hiện trường rồi bỏ chạy theo hướng xuống bờ suối. Đến bờ suối, P đã đốt mảnh vải đã dùng để cầm máu cho Bàn A S lúc trước rồi tắm, lau sạch người. Một lúc sau P gặp Pù và trời sắp tối không thấy S đâu nên khoảng 18 giờ 30 phút thì cả hai ra về. Lúc này P lấy điện thoại cùng Pù gọi cho người nhà S để hỏi xem S đã về nhà chưa với mục đích che giấu hành vi của bản thân sau đó P và Pù về nhà. Sau khi về nhà, P đã cùng người nhà của Bàn A S và mọi người trong thôn đi lên rừng tìm S. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, người dân đã phát hiện thi thể của Bàn A S tại khu vực rừng chuối và báo cáo sự việc với cơ quan Công an. Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V Triệu A P đã khai nhận toàn bộ hành vi đã nêu trên.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 45/TT-PC09 ngày 26/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái kết luận nguyên nhân chết của Bàn A S là do: "Chấn thương sọ não hở: thủng xương hộp sọ, rách màng não, chảy máu não, dập nát tổ chức não".
Tại Bản kết luận giám định số 4284/C09 - P3 ngày 16/7/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: “03 khẩu súng gửi giám định là súng kíp, thuộc súng săn, không phải vũ khí quân dụng. Khi sử dụng loại súng này bắn đạn vào cơ thể người gây chết người hoặc bị thương; 10 mẫu kim loại gửi giám định là các viên kim loại thường được nhồi trong đạn ghém và súng kíp, dùng cho súng săn, súng kíp. Không đủ cơ sở để xác định 10 mẫu kim loại trên được bắn ra từ khẩu súng nào trong 03 khẩu súng gửi giám định”.
Tại Bản kết luận giám định số 4286/C09 - TT3 ngày 31/7/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: “Chất màu nâu đỏ bám dính trên lá cây ghi tại vị trí số 6 và chất màu nâu đỏ bám dính trên thân cây rong ghi tại vị trí số 3 là máu của tử thi Bàn A S”.
Tại Bản kết luận giám định số 4300/C09 - P3 ngày 05/8/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: “ Mảnh giấy thu tại vị trí số 7 thu giữ ngày 16/6/2020 tại thôn T, xã N1, huyện V, tỉnh Yên Bái được xé ra từ mảnh giấy màu trắng có bám dính chất màu nâu ký hiệu số 2 thu trong túi sách của Triệu A P”; “Mảnh giấy màu trắng có bám dính chất màu nâu ký hiệu số 1 thu giữ trong túi sách của Triệu A P được xé ra từ mảnh giấy màu trắng có bám dính chất màu nâu ký hiệu số 2 thu trong túi sách của Triệu A P” Tại bản cáo trạng số 42/CT-VKS- VC ngày 10/9/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Chấn đã truy tố bị cáo Triệu A P về tội “ Vô ý làm chết người” theo quy định tại khoản 1 Điều 128 và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “ tự nguyện khắc phục một phần hậu quả và người phạm tội thành khẩn khai báo” quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm đã truy tố đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Triệu A P từ 02 năm tù đến 02 năm 06 tháng tù. Về xử lý vật chứng: toàn bộ số vật chứng thu giữ trong vụ án là vật cấm sử dụng và vật không còn giá trị sử dụng tịch thu tiêu hủy theo quy định. Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp cho bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường tổng số tiền 150.000.000 đồng, bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường khắc phục một phần hậu quả là 25.000.000 đồng, tại phiên tòa bồi thường thêm 100.000.000 đồng, số còn lại 25.000.000 đồng tiếp tục bồi thường sau 15 ngày tuyên án, đề nghị Công nhận sự thỏa thuận. Về án phí bị cáo là cá nhân thuộc hộ nghèo được miễn án phí theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo trình bày lời bào chữa: Nhất trí với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, áp dụng khoản 1 Điều 128 và các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Triệu A P. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, xử phạt bị cáo Triệu A P 02 năm tù. Về trách nhiệm bồi thường dân sự, xử lý vật chứng và án phí đồng ý với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
Tại phiên tòa bị cáo Triệu A P nhận thức được hành vi sử dụng súng tự chế (súng kíp) đi săn bắn thú rừng đã vô ý bắn nhầm trúng Bàn A S là vi phạm pháp luật; nói lời sau cùng rất ân hận, xin Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức hình phạt thấp.
Tại phiên tòa người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho những người đại diện hợp pháp cho bị hại Bàn A S yêu cầu bị cáo phải bồi thường tổng số tiền 150.000.000 đồng, bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường khắc phục một phần hậu quả là 25.000.000 đồng, tại phiên tòa bồi thường thêm 100.000.000 đồng, số còn lại 25.000.000 đồng tiếp tục bồi thường sau 15 ngày tuyên án, ngoài ra không có ý kiến gì thêm.
Những người làm chứng Bàn A P, Nguyễn Thị H vắng mặt tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã công bố lời khai và hỏi ý kiến bị cáo công nhận lời khai của những người làm chứng là đúng và không có ý kiến gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo Triệu A P tại phiên tòa giống lời khai tại cơ quan điều tra thể hiện: Khoảng 16 giờ ngày 15/6/2020 bị cáo cùng Bàn A P và Bàn A S rủ nhau đi săn bắn thú rừng tại khu vực rừng “ Ba cây tám” thuộc thôn T, xã N1, huyện V. Tại rừng chuối bị cáo Triệu A P đã dùng súng tự chế (loại súng kíp) vô ý bắn nhầm vào Bàn A S dẫn đến anh S bị tử vong. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án như biên bản khám nghiệm tử thi, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, biên bản thực nghiệm điều tra và vật chứng thu giữ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi vô ý làm chết người của bị cáo là hành vi không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây ra chết người mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hoặc tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra chết người nhưng tin rằng hậu quả đó không xảy ra. Do vậy, bị cáo Triệu A P đã phạm tội “Vô ý làm chết người” theo quy định tại khoản 1 Điều 128 của Bộ luật Hình sự như truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Chấn là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi vô ý trực tiếp xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng. Hành vi phạm tội của bị cáo có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn, cần phải được xử lý nghiêm minh để giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi vụ án xảy ra bị cáo và gia đình đã vay mượn, bán đất tự nguyện bồi thường khắc phục một phần hậu quả cho gia đình bị hại. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo đầy đủ, rõ ràng về hành vi phạm tội của mình. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định hình phạt cho bị cáo.
Về nhân thân: Trước khi phạm tội bị cáo Triệu A P chưa có tiền án, tiền sự là người có nhân thân tốt.
[4] Từ những nhận xét, đánh giá về tính chất, mức độ gây nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo và căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự. Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt tù, với mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội đối với bị cáo, để giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, góp phần giáo dục người khác ý thức tôn trọng pháp luật và đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức hình phạt 02 năm tù phù hợp với đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nên được chấp nhận.
[5] Về vật chứng, tài sản tạm giữ của vụ án:
+ 03 khẩu súng tự chế (loại súng kíp) thu giữ của Triệu A P, Bàn A P và tại hiện trường vụ án của Bàn A S. 03 khẩu súng này là vật Nhà nước cấm tàng trữ, sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định pháp luật.
+ 01 túi giả da màu đen (dạng túi đeo chéo); 01 hộp nhựa bên trong có chất rắn dạng bột màu đen không rõ hình thù; 01 hộp nhựa màu trắng có chứa 09 mảnh giấy một mặt màu trắng, một mặt màu đỏ; 01 hộp thủy tinh nắp nhựa bên trong có nhiều viên kim loại màu nâu; 01 thanh kim loại chiều dài 12,3 cm, đường kính 0,7 cm; 01 thanh kim loại chiều dài 11,2 cm, đường kính 0,6 cm thu giữ của Triệu A P. 01 túi vải màu đen bên trong có: 01 hộp nhựa có nắp đậy, bên trong có một mảnh giấy một mặt có màu đỏ (có hình thang); 01 hộp nhựa có nắp đậy, bên trong có các mẫu kim loại dạng viên bi, kích thước khác nhau; 01 lọ nhựa, phần thân lọ một bên có mảnh giấy bên ngoài dán băng dính, phần nắp lọ được thiết kế là một ống nhựa màu trắng; 01 thanh kim loại hình trụ dài 13,3 cm và 01 thanh kim loại hình trụ dài 13cm, hai thanh kim loại đều có đường kính là 0,7 cm; 01 mảnh túi nilon màu trắng và 01 mảnh giấy màu vàng nhạt thu giữ của Bàn A P. 01 túi niêm phong bên trong có: 01 lọ nhựa có nắp bằng gỗ bên trong có chứa chất bột màu đen; 01 lọ nhựa màu trắng có nắp nhựa màu đỏ bên trong có chứa vật kim loại hình tròn có kích thước khác nhau; 01 lọ nhựa hình trụ có nắp đậy kín bên trong có chứa vật kim loại hình tròn có kích thước khác nhau; 01 dây vải màu xám, một đầu dây được gắn với một hộp kim loại hình trụ có nắp đậy kín, bên trong có 06 mảnh giấy có một mặt màu đỏ, một mặt màu trắng, giữa mỗi mảnh giấy bọc một vật hình tròn thu giữ tại hiện trường của Bàn A S. 01 áo khoác màu xanh đen, áo đã cũ, tại cổ tay phải áo bị rách, tại túi áo trái bị rách toàn bộ ( mất phần vải lõi túi) vết rách này có chiều dài 30cm; 01 cành cây dài 30cm có đường kính đoạn lớn nhất là 1,9 cm; 10 mẫu kim loại dạng bi có đường kính từ 2mm đến 4,2mm; 01 mảnh giấy thu giữ tại vị trí số 7 ngày 16/6/2020; 02 mảnh giấy màu trắng có bám dính chất màu nâu thu trong túi sách của Triệu A P; 01 thanh kim loại màu đen dài 14,6 cm, đường kính 0,7cm có bán dính chất bột màu đen, một số viên kim loại có kích thước khác nhau có lẫn chất bột màu đen; 01 con dao có chiều dài 36,5cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 25,2cm, bản dao phần rộng nhất là 4,1cm, dao có một đầu nhọn, một lưỡi sắc, chuôi dao bằng nhựa, dao đã cũ. Toàn bộ những vật này không còn giá trị sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định pháp luật.
[6] Về vấn đề khác:
Về trách nhiệm dân sự: Những người đại diện hợp pháp của bị hại Bàn A S yêu cầu bị cáo Triệu A P phải bồi thường với tổng số tiền 150.000.000 đồng ngoài ra không yêu cầu bồi thường gì thêm. Ngay sau khi vụ án xảy ra bị cáo và gia đình đã bồi thường được số tiền 25.000.000 đồng, vì hoàn cảnh gia đình thuộc hộ nghèo trong xã gia đình bị cáo đã bán đất ở để khắc phục bồi thường thiệt hại, tại phiên tòa đã bồi thường được 100.000.000 đồng, số còn lại 25.000.000 đồng bị cáo và gia đình xin khất trong vòng 15 ngày sau khi tuyên án sẽ bồi thường nốt. Tại phiên tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp cho những người đại diện hợp pháp của bị hại nhất trí với đề nghị của bị cáo và gia đình bị cáo. Việc thỏa thuận này do các bên hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử công nhận.
Về án phí: Bị cáo Triệu A P là cá nhân thuộc hộ nghèo theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo Triệu A P.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo Triệu A P, những người đại diện hợp pháp của bị hại Bàn A S có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Triệu A P phạm tội “ Vô ý làm chết người”.
2. Về hình phạt:
- Căn cứ khoản 1 Điều 128; các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
- Xử phạt bị cáo Triệu A P 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm gữi 17/6/2020.
3. Căn cứ các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; các điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự .
- Tịch thu tiêu hủy: 03 khẩu súng tự chế (súng kíp) đã niêm phong thu giữ của Triệu A P, Bàn A P và tại hiện trường vụ án của Bàn A S.
+ 01 hộp bìa bên trong có 01 túi giả da màu đen (dạng túi đeo chéo); 01 hộp nhựa bên trong có chất rắn dạng bột màu đen không rõ hình thù; 01 hộp nhựa màu trắng có chứa 09 mảnh giấy một mặt màu trắng, một mặt màu đỏ; 01 hộp thủy tinh nắp nhựa bên trong có nhiều viên kim loại màu nâu; 01 thanh kim loại chiều dài 12,3 cm, đường kính 0,7 cm; 01 thanh kim loại chiều dài 11,2 cm, đường kính 0,6 cm thu giữ của Triệu A P.
+ 01 túi vải màu đen bên trong có: 01 hộp nhựa có nắp đậy, bên trong có một mảnh giấy một mặt có màu đỏ (có hình thang); 01 hộp nhựa có nắp đậy, bên trong có các mẫu kim loại dạng viên bi, kích thước khác nhau; 01 lọ nhựa, phần thân lọ một bên có mảnh giấy bên ngoài dán băng dính, phần nắp lọ được thiết kế là một ống nhựa màu trắng; 01 thanh kim loại hình trụ dài 13,3 cm và 01 thanh kim loại hình trụ dài 13cm, hai thanh kim loại đều có đường kính là 0,7 cm; 01 mảnh túi nilon màu trắng và 01 mảnh giấy màu vàng nhạt thu giữ của Bàn A P.
+ 01 túi niêm phong bên trong có: 01 lọ nhựa có nắp bằng gỗ bên trong có chứa chất bột màu đen; 01 lọ nhựa màu trắng có nắp nhựa màu đỏ bên trong có chứa vật kim loại hình tròn có kích thước khác nhau; 01 lọ nhựa hình trụ có nắp đậy kín bên trong có chứa vật kim loại hình tròn có kích thước khác nhau; 01 dây vải màu xám, một đầu dây được gắn với một hộp kim loại hình trụ có nắp đậy kín, bên trong có 06 mảnh giấy có một mặt màu đỏ, một mặt màu trắng, giữa mỗi mảnh giấy bọc một vật hình tròn thu giữ tại hiện trường của Bàn A S.
+ 01 áo khoác màu xanh đen, áo đã cũ, tại cổ tay phải áo bị rách, tại túi áo trái bị rách toàn bộ (mất phần vải lõi túi) vết rách này có chiều dài 30cm.
+ 01 phong bì màu trắng đã được niêm phong và các dấu đỏ của Viện khoa học hình sự Bộ Công an bên trong có: 01 cành cây dài 30cm có đường kính đoạn lớn nhất là 1,9 cm; 10 mẫu kim loại dạng bi có đường kính từ 2mm đến 4,2mm.
+ 01 mảnh giấy thu giữ ngày 16/6/2020; 02 mảnh giấy màu trắng có bám dính chất màu nâu thu trong túi sách của Triệu A P.
+ 01 túi niêm phong màu trắng của Phòng Kỹ thuật hình sự sông an tỉnh Yên Bái bên trong có: 01 thanh kim loại màu đen dài 14,6 cm, đường kính 0,7cm có bán dính chất bột màu đen, một số viên kim loại có kích thước khác nhau có lẫn chất bột màu đen.
+ 01 con dao có chiều dài 36,5cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 25,2cm, bản dao phần rộng nhất là 4,1cm, dao có một đầu nhọn, một lưỡi sắc, chuôi dao bằng nhựa, dao đã cũ.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 14/9/2020 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Yên Bái và cơ quan Chi cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Yên Bái).
4. Căn cứ khoản 1 Điều 584; khoản 1 Điều 585; Điều 591 của Bộ luật dân sự, bị cáo Triệu A P phải bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm cho những người đại diện hợp pháp của bị hại Bàn A S số tiền còn lại 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng chẵn).
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, những người đại diện hợp pháp của bị hại Bàn A S có đơn yêu cầu thi hành khoản tiền trên mà bị cáo Triệu A P chậm thi hành thì hàng tháng bị cáo còn phải chịu lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, với mức lãi suất phát sinh do chậm trả được xác định theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự .
5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm, dân sự sơ thẩm cho bị cáo Triệu A P.
6. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo Triệu A P, những người đại diện hợp pháp của bị hại Bàn A S có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 40/2020/HS-ST ngày 25/09/2020 về tội vô ý làm chết người
Số hiệu: | 40/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Văn Chấn - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về