Bản án 40/2020/HS-ST ngày 16/09/2020 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM THAO, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 40/2020/HS-ST NGÀY 16/09/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 16 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự 41/2020/HSST ngày 07 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 9 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn Đ; sinh ngày 05/5/1968 tại huyện L, tỉnh Phú Thọ. Nơi cư trú: khu T, thị trấn L, huyện L, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn C (đã chết) và bà: Trịnh Thị T, sinh năm 1929; có vợ: Triệu Thị H, sinh năm 1968 và có 02 con: Con lớn sinh năm 1991, nhỏ sinh năm 1993; tiền án, tiền sự: Không: Nhân Thân: Ngày 08/12/2016, Công an huyện Lâm Thao ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Văn Đ về hành vi Đánh bạc, chấp hành nộp phạt xong vào ngày 08/12/2016. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/5/2020 đến ngày 19/05/2020. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 19/05/2020 đến ngày 08/8/2020 tại thị trấn L, huyện L, tỉnh Phú Thọ, có mặt.

2. Nguyễn Xuân P; sinh ngày 01/4/1968 tại huyện L, tỉnh Phú Thọ. Nơi cư trú: khu T, thị trấn L, huyện L, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn L (đã chết) và bà: Đặng Thị K, sinh năm 1924; có vợ: Nguyễn Thị Lan T, sinh năm 1980 (đã ly hôn) và có 02 con: Con lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/5/2020 đến ngày 19/05/2020. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 19/05/2020 đến ngày 08/8/2020 tại thị trấn L, huyện L, tỉnh Phú Thọ, có mặt.

3. Hoàng Văn B; sinh ngày 25/4/1989 tại thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Nơi cư trú: khu 6, xã C, thành phố V, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng Văn L, sinh năm 1959 và bà: Cao Thị O, sinh năm 1962; có vợ: Hoàng Thị D, sinh năm 1992 và có 03 con: Con lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/5/2020 đến ngày 19/05/2020. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 19/05/2020 đến ngày 08/8/2020 tại thị trấn L, huyện L, tỉnh Phú Thọ, có mặt.

4. Hoàng Thị L; sinh ngày 14/5/1987. Nơi cư trú: Xóm M, xã M, huyện T, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 5/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng Văn L, sinh năm 1969 và bà: Hà Thị C, sinh năm 1967; có chồng: Nguyễn Đức K, sinh năm 1982 và có 02 con: Con lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/5/2020 đến ngày 19/05/2020. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 19/05/2020 đến ngày 08/8/2020 tại thị trấn L, huyện L, tỉnh Phú Thọ, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 15 giờ 45 phút ngày 16/5/2020, tổ công tác của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lâm Thao phối hợp cùng Công an thị trấn Lâm Thao kiểm tra bắt quả tang 04 đối tượng gồm: Nguyễn Xuân P, sinh năm 1968, ở khu T, Thị trấn L, huyện L; Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1968, ở khu T, thị trấn L, huyện L; Hoàng Văn B, sinh năm 1989 ở khu 6, xã C , thành phố V, tỉnh Phú Thọ; Hoàng Thị L, sinh năm 1987 ở xóm M, xã M, huyện T, tỉnh Phú Thọ đang đánh bạc bằng hình thức chơi Xâm được thua bằng tiền tại gian nhà kho thuộc nhà ở của Nguyễn Xuân P. cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lâm Thao đã thu giữ: 01 chiếu mành màu vàng, kích thước 1,5 x 1,8m đã qua sử dụng; 52 quân bài tú lơ khơ đã qua sử dụng; số tiền 5.250.000đ (Năm triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) trên chiếu bạc, 2.200.000đ (Hai triệu hai trăm nghìn đồng) trên người của Hoàng Văn B và 1.000.000đ (Một triệu đồng) trên người của Hoàng Thị L.

Cùng ngày 16/5/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lâm Thao đã khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Xuân P, kết quả khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lâm Thao các đối tượng khai nhận như sau:

Khong 12 giờ ngày 16/5/2020, Nguyễn Văn Đ, Hoàng Văn B, Hoàng Thị L đến nhà ở của Nguyễn Xuân P chơi, uống nước. Trong lúc ngồi chơi, Nguyễn Xuân P, Nguyễn Văn Đ, Hoàng Văn B, Hoàng Thị L rủ nhau đánh bạc bằng hình thức chơi “Sâm”, được thua bằng tiền. Tất cả đều đồng ý, rồi đi đến gian nhà kho thuộc nhà ở của Nguyễn Xuân P. Hoàng Thị L lấy 01 chiếu mành trải ra nền gian nhà kho, Nguyễn Văn Đ lấy bộ bài tú lơ khơ có 52 quân bài rồi tất cả các đối tượng trên cùng tham gia đánh bạc.

Cách thức chơi như sau: Bộ bài tú lơ khơ có 52 quân; gồm bốn chất: Jô, Cơ, Tép, Bích. Mỗi chất có 13 quân bài, lần lượt từ cao xuống thấp là: 2, A, K, Q, J, 10, 9, 8, 7, 6, 5, 4, 3; Bộ dây: là tập hợp 03 quân bài trở lên mà các quân bài có số hoặc chữ kế tiếp, liên tục nhau, không cần phải cùng chất. Tập hợp K, A (Át), 2 không được tính là bộ dây; bộ đôi: là tập hợp 02 quân bài cùng số hoặc cùng chữ; sáp: là tập hợp 03 quân bài cùng số hoặc cùng chữ; tứ quý: là tập hợp 04 quân bài cùng số hoặc cùng chữ; Sâm: trong một ván bài, một người chơi báo Sâm và có bài đánh ra liên tục đến hết bài, không ai chặn, đỡ được thì người đó được Sâm. Những người chơi còn lại phải trả tiền cho người được sâm; bắt Sâm: người chơi đã báo Sâm, khi đánh bài mà bị người chơi khác có bài đỡ, chặn được gọi là Bắt Sâm thì người báo Sâm phải đền tiền cho người bắt Sâm; Treo: trong một ván bài, một người chơi không đánh được một quân bài nào của mình thì gọi là treo và người chơi bị treo phải trả tiền cho người thắng ván bài đó; chặt tứ quý: ngưi chơi đánh quân 2, bị người có tứ quý chặn, đỡ gọi là Chặt tứ quý. Người bị chặt tứ quý phải trả tiền cho người chặt tứ quý; báo đỏ và đền làng: người chơi còn lại một quân bài phải báo cho người khác về việc mình còn một quân bài. Người chơi liền trước người chơi này buộc phải đánh bài cao nhất trong 10 quân bài của mình hoặc bài mà người báo đỏ không thể chặn, đỡ được. Nếu không đánh bài cao nhất, để người báo đỏ chặn đỡ được thì người đó phải đền làng, phải trả cho người báo đỏ thắng ván bài thay cho tất cả những người chơi khác.

Khi bắt đầu một ván chơi, một người chơi sử dụng bộ bài tú lơ khơ có 52 quân, chia đều cho mỗi người chơi 10 quân bài, số lá bài còn lại để xuống chiếu.

Trong một ván bài, người chơi nào cũng có quyền báo Sâm. Nếu có nhiều người chơi cùng báo Sâm thì người thắng ở ván bài trước được báo Sâm trước, nếu người thắng ở ván bài trước không báo Sâm thì lần lượt những người chơi còn lại từ trái qua phải của người thắng ván bài trước được báo Sâm. Nếu không có ai báo Sâm thì người chia bài đánh trước, sau đó, người chơi lần lượt từ trái qua phải của người chia bài đánh bài của mình. Người đánh sau phải đánh quân bài cao hơn quân bài trước của người đánh trước. Trong lượt đánh, nếu người chơi không tham gia đánh từ đầu hoặc bỏ lượt đánh của mình thì không được tiếp tục tham gia vòng đánh. Nếu không có ai chặn được tiếp thì người đánh cuối cùng được đánh bài bắt đầu một vòng mới. Người chơi đánh hết quân bài của mình trước thắng. Những người chơi còn lại đếm số quân bài còn lại trên tay của mình và quy đổi thành tiền để trả cho người thắng ván bài đó.

Người thắng ván bài trước sẽ chia bài và được quyền đánh trước ở ván bài kế tiếp.

Mức tiền thắng - thua mỗi ván bài như sau: Người thua, mỗi 1 quân bài còn lại phải trả cho người thắng 10.000đ (Mười nghìn đồng); Sâm: Mỗi người chơi phải trả cho người Sâm 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng); Treo: Người bị treo phải trả cho người thắng 150.000đ (Một trăm năm mươi nghìn đồng); Tứ quý: Người chơi bị chặt tứ quý phải trả cho người chặt tứ quý 150.000đ (Một trăm năm mươi nghìn đồng); Bắt Sâm:

Người chơi bị bắt Sâm phải trả cho người bắt được Sâm bằng tổng số tiền những người chơi phải trả cho người Sâm.

Người nhất ván bài trước sẽ chia bài và được quyền đánh trước ở ván bài kế tiếp. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lâm Thao đã làm rõ số tiền các đối tượng sử dụng đánh bạc như sau:

Nguyễn Xuân P đem theo số tiền 1.750.000đ (Một triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) để đánh bạc. Khi bị bắt tại chiếu bạc P còn 1.400.000đ (Một triệu bốn trăm nghìn đồng), P bị thua 350.000đ (Ba trăm năm mươi nghìn đồng); Nguyễn Văn Đ đem theo số tiền 3.800.000đ (Ba triệu tám trăm nghìn đồng) để đánh bạc. Khi bị bắt tại chiếu bạc Đ có 1.450.000đ (Một triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng), Đ thua 2.350.000đ (Hai triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng); Hoàng Văn B đem theo số tiền 1.400.000đ (Một triệu bốn trăm nghìn đồng) để đánh bạc. Khi bị bắt tại chiếu bạc B có 2.150.000đ (Hai triệu một trăm năm mươi nghìn đồng) và B giao nộp số tiền cất trên người là 2.200.000đ (Hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng), như vậy B thắng số tiền là 2.950.000đ (Hai triệu chín trăm năm mươi nghìn đồng); Hoàng Thị L đem theo số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) để đánh bạc. Khi bị bắt tại chiếu bạc L có 250.000đ (Hai trăm năm mươi nghìn đồng) và L giao nộp số tiền cất trong người là 1.000.000đ (Một triệu đồng), L thua 250.000đ (Hai trăm năm mươi nghìn đồng);

Như vậy tổng số tiền các bị cáo mang theo sử dụng để đánh bạc là 8.450.000đ (Tám triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng) Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Xuân P, Hoàng Văn B và Hoàng Thị L đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Ti bản cáo trạng số: 40/CT - VKSLT ngày 05/8/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Thao đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Xuân P, Hoàng Văn B và Hoàng Thị L về tội: “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện lâm Thao giữ nguyên quan điểm truy tố đề nghị áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; Điều 36; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự (đối với Đ); khoản 1, 2 Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự (đối với P, B và L), điểm a,b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a,b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án, xử phạt các bị cáo:

- Nguyễn Văn Đ từ 15 đến 18 tháng cải tạo không giam giữ. Bị cáo được trừ đi 03 ngày tạm giữ. (Từ ngày 16/5/2020 đến ngày19/5/2020).

Về hình phạt bổ sung: phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 10.000.000 đồng 12.000.000 đồng;

Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Đ. Buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng.

- Nguyễn Xuân P từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng

- Hoàng Văn B từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng

- Hoàng Thị L từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng

Áp dụng các quy định của pháp luật về xử lý vật chứng và án phí.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, các bị cáo nói lời nói sau cùng:

Các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Xuân P, Hoàng Văn B và Hoàng Thị L đều ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng:

Hành vi, quyết định của cơ quan điều tra Công an huyện Lâm Thao, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Thao, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao, Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự. Các quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng đã được tống đạt cho các bị cáo đúng thời hạn do pháp luật quy định. Các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì.

[2] Về nội dung:

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Hồi 15 giờ 45 phút ngày 16/5/2020, tại gian nhà kho thuộc nhà ở của Nguyễn Xuân P các đối tượng Nguyễn Xuân P, Nguyễn Văn Đ, Hoàng Văn B, Hoàng Thị L đã có hành vi Đánh bạc được thua bằng tiền, hình thức chơi Sâm thì bị bắt quả tang, tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc 8.450.000đ (Tám triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng). Như vậy, có đủ căn cứ để khẳng định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Thao truy tố các bị cáo về tội đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

Khon 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự quy định.

“ 1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Vụ án tuy thuộc loại tội ít nghiêm trọng, song hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, năng lực hành vi để nhận thức được hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh “sâm”, sát phạt nhau bằng tiền là vi phạm pháp luật gây mất rật tự công cộng, làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác cũng như ảnh hưởng đến kinh tế hạnh phúc gia đình nhưng vì mục đích vụ lợi muốn có tiền tiêu sài không phải lao động nên các bị cáo vẫn cố tình phạm tội, vì vậy cần phải đưa ra xét xử và có hình phạt mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Vụ án có đồng phạm nhưng giản đơn, trước khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử cần xem xét đến nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

Đi với bị cáo Nguyễn Văn Đ không có tiền án, tiền sự nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Bị cáo có nhân thân xấu đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại phạm tội. Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn, hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trương hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xét thấy, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội theo quy định tại Điều 36 Bộ luật Hình sự là cũng đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Bị cáo Nguyễn Văn Đ không có thu nhập ổn định nên cần miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Hiện nay, bị cáo Nguyễn Văn Đ lao động tự do, không có việc làm nên không khấu trừ thu nhập để sung quỹ Nhà nước đối với bị cáo. Vì vậy theo quy định tại khoản 4 Điều 36 Bộ luật Hình sự, cần buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đi với các bị cáo Nguyễn Xuân P, Hoàng Văn B và Hoàng Thị L đều chưa có tiền án, tiền sự nên không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Các bị cáo Nguyễn Xuân P, Hoàng Văn B và Hoàng Thị L đều phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn, hối cải. Vì vậy, các bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như về điều kiện kinh tế và mục đích phạm tội của các bị cáo Phú, Bình và Lương, xét thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà có thể áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính theo quy định tại Điều 35 Bộ luật Hình sự cũng đủ để giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Đối với bị cáo Đ, cơ quan Điều tra xác minh bị cáo không có tài sản riêng gì. Tuy nhiên, để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật nên cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 10.000.000 đồng 12.000.000 đồng.

Đi với Nguyễn Xuân P, Hoàng Văn B và Hoàng Thị L. Do áp dụng hình phạt chính là phạt tiền, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo là phù hợp.

Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Cần tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 8.450.000 đồng (tám triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng), là số tiền các bị cáo đã sử dụng vào đánh bạc thu được tại chiếu bạc.

Đi với 52 quân bài tú lơ khơ đã qua sử dụng; 01 chiếu mành màu vàng, kích thước 1,5x 1,8m đã qua sử dụng, không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy . (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/8/2020).

[3] Về án phí: Các bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; khoản 1, 2 Điều 35; Điều 36; điểm i, s khoản 1 Điều 51, điểm a,b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[1] Tuyên bố các bị cáo: Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Xuân P, Hoàng Văn B và Hoàng Thị L phạm tội: “Đánh bạc”

[2] Xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Văn Đ 15 (mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ nhưng được trừ đi thời gian đã bị tạm giữ là 03 (ba) ngày (từ 16/5/2020 đến 19/5/2020) quy đổi = 09 (chín) ngày cải tạo không giam giữ. Thời gian còn lại là 14 (mười bốn) tháng 21(hai mươi mốt) ngày cải tạo không giam giữ.

Thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND thị trấn L, huyện L, tỉnh Phú Thọ nhận được bản sao bản án và quyết định thi hành án đối với bị cáo. Giao bị cáo Đ cho UBND thị trấn L, huyện L, tỉnh Phú Thọ giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND thị trấn L, huyện L, tỉnh Phú Thọ trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Trong trường hợp bị cáo Nguyễn Văn Đ thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 100 của Luật thi hành án hình sự.

Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Việc lao động, học tập của người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ thực hiện theo quy định tại Điều 101 Luật thi hành án hình sự. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 4 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.

Về hình phạt bổ sung: Phạt tịch thu, sung công đối với bị cáo Đ 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).

- Bị cáo Nguyễn Xuân P, Hoàng Văn B và Hoàng Thị L mỗi bị cáo 30.000.000đồng (ba mươi triệu) để sung vào ngân sách Nhà nước.

[3] Về xử lý vật chứng:

Tch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 8.450.000 đồng (tám triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng).

Tch thu tiêu hủy 52 quân bài tú lơ khơ đã qua sử dụng; 01 chiếu mành màu vàng, kích thước 1,5x 1,8m đã qua sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/8/2020).

[4] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Xuân P, Hoàng Văn B và Hoàng Thị L mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để đề nghị TAND tỉnh Phú Thọ xét xử theo trình tự phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 40/2020/HS-ST ngày 16/09/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:40/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Thao - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;