Bản án 40/2020/HSST ngày 14/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 40/2020/HSST NGÀY 14/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 05 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2020/TLST- HS, ngày 09 tháng 03 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55 /2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 05 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Bị cáo: Cụt Văn T. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 9 tháng 7 năm 1999 tại xã Bảo Nam, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Bản N 1, xã BN, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn:

4/12; dân tộc: Khơ mú; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cụt Văn Kh và bà Xeo Thị L; Vợ con: Chưa có; tiền sự, tiền án: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2019 cho đến nay. Có mặt.

2. Bị cáo: Xeo Văn Ch. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 05 tháng 3 năm 1989 tại xã Bảo Nam, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Bản N 1, xã BN, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn:

5/12; dân tộc: Khơ mú; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Xeo Văn T và bà Moong Thị M; Có vợ họ và tên: Cụt Thị Th và 02 con lớn nhất sinh năm 2015 nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền sự, Tiền án: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2019 cho đến nay. Có mặt.

3. Bị cáo: Cụt Văn D. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 11 tháng 10 năm 1995 tại xã Bảo Nam, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Bản N 1, xã BN, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Khơ mú; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;

con ông Cụt Phò D và bà Cụt Mẹ D; Vợ con: Chưa có. Tiền sự; Tiền án: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2019 cho đến nay. Có mặt.

Người bào chữa cho các bị cáo: Bà Vũ Thị Hồng - Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Moong Văn Th, sinh năm 1992, trú tại bản Ch, xã L, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

Người chứng kiến: Anh Kha Văn Kh, sinh năm 1994. Nơi cư trú: Bản X, xã H, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17 giờ, ngày 20/12/2019, Xeo Văn Ch đang ở nhà thì có Cụt Văn T và Cụt Văn D đến chơi và uống rượu. Sau khi uống rượu được một lúc thì Ch điều khiển xe máy chở D và T đi tìm bò, nhưng vừa đi được một đoạn thì T rủ Ch và D đi vào bản Noọng Ó, xã Hữu Lập, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An để mua ma túy về sử dụng thì Ch và D đều đồng ý, lúc này T đưa cho Ch số tiền 100.000đ ( Một trăm nghìn đồng) để mua ma túy. Khi Ch, T và D đến bản Noọng Ó thì gặp một người đàn ông người dân tộc Thái, Ch đã đưa 100.000đ ( Một trăm nghìn đồng) nhờ người đàn ông này đi mua ma túy nhưng người đàn ông này không mua được, nên đã đưa tiền trả lại cho Ch. Sau đó Ch vào trong bản và mua được của một người phụ nữ người dân tộc Thái trong bản Noọng Ó, xã Hữu Lập 03 ( Ba) viên ma túy tổng hợp được gói bằng bao Potylen màu trắng với giá 100.000đ ( Một trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy, Ch lấy ra 01 ( Một) viên ma túy tổng hợp cùng D và T sử dụng hết, còn 02 ( Hai) viên ma túy, Ch gói lại như cũ, cất dấu vào trong túy quần bên phải của mình, rồi cùng với D và T quay về. Đến khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 20/12/2019, Ch, D và T đi về đến khu vực bản Chà Lắn, xã Hữu Lập, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An thì tổ công tác Công an huyện Kỳ Sơn kiểm tra, phát hiện, thu giữ trong túi quần bên trái của Ch đang mặc 01 (Một) bao Potylen màu trắng bên trong chứa 02 ( Hai) viên nén màu hồng (Nghi là ma túy tổng hợp); đồng thời thu giữ chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, màu đỏ đen, biển kiểm soát 37K1-14005 mà các đối tượng sử dụng.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào ngày 22/12/2019 đã xác định: Viên nén màu hồng thu giữ của Cụt Văn T, Xeo Văn Ch và Cụt Văn D có khối lượng 0,2 g (Không phẩy hai gam). Hội đồng đã trích 0,1 g (Không phẩy một gam) để gửi đi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 63/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 27/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Cụt Văn T, Xeo Văn Ch và Cụt Văn D gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Cáo trạng số 30/CT-VKS-KS ngày 09/03/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An truy tố Cụt Văn T, Xeo Văn Ch và Cụt Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung cáo trạng, luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Cụt Văn T mức án từ 14 tháng đến 16 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Xeo Văn Ch mức án từ 13 tháng đến 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Cụt Văn D mức án từ 13 tháng đến 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo; Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì bưu điện viền xanh đỏ, được dán kín, trên mép dán có đầy đủ chữ ký của hội đồng tham gia niêm phong và chữ ký của Cụt Văn T, Xeo Văn Ch và Cụt Văn D, bên trong chứa số ma túy (Methamphtamine) có khối lượng còn lại là 0,1 gam cùng vỏ giấy niêm phong ban đầu; Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo Cụt Văn T, Xeo Văn Ch và Cụt Văn D đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo không có tranh luận gì. Các bị cáo nói lời nói sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Người bào chữa cho các bị cáo trình bày: Về tội danh và điều luật áp dụng đồng ý với đại diện Viện kiểm sát. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ của các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án thấp nhất như đề nghị của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Kỳ Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về việc vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và người chứng kiến, tuy nhiên không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo Cụt Văn T, Xeo Văn Ch và Cụt Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 20/12/2019, tại khu vực bản Chà Lắn, xã Hữu Lập, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An Cụt Văn T, Xeo Văn Ch và Cụt Văn D là người có đầy đủ năng lực hành vi để nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có ma túy để sử dụng nên đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (Methamphetamine) với khối lượng là 0,2 gam thì bị Công an huyện Kỳ Sơn phát hiện và bắt quả tang. Với hành vi trên của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[4] Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm quy định về quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Làm mất trật tự trị an trên địa bàn, làm phát sinh các tệ nạn xã hội, các tội phạm khác. Vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn bị cáo Cụt Văn T là người khởi xướng và thực hiện hành vi tích cực trong việc phạm tội vì vậy cần phải xem xét mức hình phạt tương thích với hành vi đã thực hiện. Các bị cáo tuổi đời còn trẻ mà không chịu khó học tập lao động để trở thành người có ích cho xã hội mà lại ham chơi, đua đòi nên nghiện ma túy, các bị cáo đều nhận thức được việc thực hiện hành vi mua bán và tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật. Vì vậy, cần lên một mức án nghiêm, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục riêng các bị cáo và công tác đấu tranh phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đối với bị cáo Xeo Văn Ch có bố ruột là ông Xeo Văn Tiến tham gia dân công hỏa tuyến thời kỳ kháng chiến được các cấp ghi nhận vì vậy cần áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để khi quyết định hình phạt nên xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập công việc ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 (Một) phong bì bưu điện viền xanh đỏ, được dán kín, trên mép dán có đầy đủ chữ ký của hội đồng tham gia niêm phong và chữ ký của Cụt Văn T, Xeo Văn Ch và Cụt Văn D, bên trong chứa số ma túy (Methaphetamine) có khối lượng còn lại là 0,1g (Không phẩy một gam) cùng vỏ giấy niêm phong ban đầu là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu và tiêu hủy. Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius màu sơn đỏ đen biển kiểm soát số 37K1-14005 là thuộc sở hữu của anh Moong Văn Thân sinh năm 1992 trú tại bản Chăm Phuông, xã Lượng Minh, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An, quá trình Cụt Văn T, Xeo Văn Ch và Cụt Văn D sử dụng để đi mua ma túy anh Thân không biết nên ngày 20/01/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho anh Moong Văn Thân là đúng quy định của pháp luật.

[7] Đối với người phụ nữ dân tộc Thái đã bán ma túy cho Cụt Văn T, Xeo Văn Ch và Cụt Văn D quá trình điều tra chưa xác định được danh tính nên chưa có căn cứ xử lý, khi nào điều tra được sẽ xử lý sau.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[9]. Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về điều luật áp dụng và tội danh:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Cụt Văn T: 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2019.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Xeo Văn Ch: 14 (Mười bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2019.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Cụt Văn D: 13 (Mười ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) phong bì bưu điện viền xanh đỏ, được dán kín, trên mép dán có đầy đủ chữ ký của hội đồng tham gia niêm phong và chữ ký của Cụt Văn T, Xeo Văn Ch và Cụt Văn D bên trong chứa số ma túy (Methamphetamine) có khối lượng còn lại là 0,1 g (Không phẩy một gam)cùng vỏ giấy niêm phong ban đầu. (Đặc điểm, tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/03/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn tỉnh Nghệ An).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Cụt Văn T, Xeo Văn Ch và Cụt Văn D mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo Cụt Văn T, Xeo Văn Ch và Cụt Văn D có quyền kháng cáo bản án đến Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 40/2020/HSST ngày 14/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:40/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;