Bản án 40/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 40/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 15 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 123/2019/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 123/2019/QĐXX-ST ngày 04 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 56/2019/QĐST-DS ngày 21 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L - sinh năm: 1982.

Nơi cư trú: Số 21 Đường A, phường A, quận S, TP. Đà Nẵng. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Phan Đức T- sinh năm: 1981.

Nơi cư trú: Số 21 Đường A, phường A, quận S ,TP. Đà Nẵng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện, tại bản tự khai, biên bản hòa giải cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị L trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà xây dựng gia đình với ông Phan Đức T vào năm 2011, hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường A, quận S, TP. Đà Nẵng.

Vợ chồng chung sống với nhau được một thời gian đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông T không tu chí làm ăn, vô tâm không có trách nhiệm với gia đình, thường hay gây gỗ, nói năng, chửi bới xúc phạm đến bà. Do mâu thuẫn vợ chồng xảy ra nên đầu năm 2018 bà sống ly thân với ông T, trong thời gian đó ông T thường xuyên đến chỗ bà ở gây gỗ, quấy rối cuộc sống của bà làm ảnh hưởng đến con cái. Mâu thuẫn được hai bên gia đình hòa giải nhưng không kết quả. Vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2018 đến nay, không còn quan tâm chăm sóc nhau trong cuộc sống. Nay bà L xác định về tình cảm không còn thương yêu ông T, nếu kéo dài cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc, vì vậy bà xin được ly hôn với ông Phan Đức T.

- Về nuôi con chung: Bà L xác định có 01 con chung là Phan Nguyễn Thùy T - sinh ngày 01/01/2013. Nếu ly hôn, bà L có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phan Nguyễn Thùy T và yêu cầu ông Phan Đức T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 2.000.000 đồng.

- Về tài sản chung: Bà L xác định vợ chồng không có tài sản chung.

- Về nợ chung: Bà L xác định vợ chồng không có nợ chung.

* Tại bản tự khai, biên bản hòa giải bị đơn ông Phan Đức T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông xây dựng gia đình với bà Nguyễn Thị L vào năm 2011, hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường A, quận S, TP. Đà Nẵng.

Vợ chồng chung sống với nhau đến năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bà L đi chơi với bạn, không lo cho chồng con. Ông đã nhiều lần khuyên nhủ không nghe nên bực tức có la mắng và nạt nộ bà L. Ông T nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng một phần là lỗi ở nơi ông. Nay ông xác định về tình cảm không còn yêu thương bà L nhưng vì ông theo đạo nên đề nghị Tòa án xét xử cho vợ chồng ông được đoàn tụ để cùng có trách nhiệm lo cho con.

- Về nuôi con chung: Ông Phan Đức T xác định có 01 con chung là Phan Nguyễn Thùy T - sinh ngày 01/01/2013. Nếu ly hôn, ông T đồng ý giao con chung Phan Nguyễn Thùy T cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng, ông tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.000.000 đồng.

- Về tài sản chung: Ông T xác định vợ chồng không có tài sản chung.

- Về nợ chung: Ông T xác định vợ chồng không có nợ chung.

Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, Tp Đà Nẵng phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình giải quyết:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của bà Nguyễn Thị L đối với ông Phan Đức T.

- Về con chung: Giao con chung Phan Nguyễn Thùy T - sinh ngày 01/01/2013 cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng. Buộc ông T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.000.000 đồng.

- Về tài sản chung, nợ chung: không đề cập đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

Về thủ tục tố tụng:

[1] Đây là vụ án Ly hôn, tranh chấp nuôi con. Trước khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện thì bị đơn ông Phan Đức T đang cư trú tại số nhà 21, Đường A, phường A, quận S, TP. Đà Nẵng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Tòa án nhân dân quận Sơn Trà đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn ông Phan Đức T nhưng tại phiên tòa hôm nay ông Phan Đức T vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của BLTTDS, Tòa án tiến hành xét vử vắng mặt bị đơn ông Phan Đức T.

Về nội dung vụ án:

[3] Bà Nguyễn Thị L và ông Phan Đức T xây dựng gia đình với nhau vào năm 2011, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường A, quận S, TP. Đà Nẵng. Đây là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

[4] Trong quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do quan điểm sống tính tình vợ chồng không hợp nên thường hay cải vả, vợ chồng không quan tâm đến nhau, không chia sẻ công việc gia đình, thường hay gây gỗ, nói năng xúc phạm nhau nhiều điều dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt. Do mâu thuẫn nên vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2018 đến nay, không ai có trách nhiệm gì với nhau. Quá trình tố tụng cũng như tại phiên toà bà L xác định tình cảm không còn yêu thương ông T nữa nên nguyện vọng bà xin được ly hôn. Còn bị đơn ông T cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nhưng vì theo đạo nên muốn được đoàn tụ để cùng có trách nhiệm lo cho con.

[5] Xét yêu cầu của các bên đương sự thì thấy: Hạnh phúc vợ chồng chỉ thật sự đạt được khi cả vợ lẫn chồng cùng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình. Thế nhưng đối với vợ chồng ông bà thì không làm được điều đó. Từ khi mâu thuẫn phát sinh ông, bà chưa có biện pháp gì để tháo gở những vướng mắc, bất đồng xảy ra trong cuộc sống mà mỗi người thích làm gì thì làm dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt, không có tiếng nói chung, đồng thời cách cư xử của ông T làm cho mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng hơn, hố sâu ngăn cách giữa hai ông bà quá lớn không thể hàn gắn được, mặc khác ông T cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nhưng vì theo đạo nên ông xin được đoàn tụ. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng ông bà đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy HĐXX căn cứ Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin được ly hôn của bà L là phù hợp. Vấn đề xin đoàn tụ của của ông T hội đồng xét xử không chấp nhận.

[6] Về nuôi con chung: Bà L và ông T xác định có 01 người: Phan Nguyễn Thùy T - sinh ngày 01/01/2013. Tại phiên toà bà L có nguyện vọng xin được nuôi con chung và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng. Ông T vắng mặt nhưng thể hiện trong hồ sơ vụ án thì ông đồng ý giao con chung cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng, ông tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng.

[7] Xét sự thoả thuận về việc nuôi con chung của các bên đương sự là hoàn toàn tự nguyện phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận. Riêng về vấn đề cấp dưỡng nuôi con thì thấy rằng việc làm cha, làm mẹ ai cũng phải có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với con chung, bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền cho bên nhận nuôi con, tuy nhiên cũng tuỳ thuộc vào khả năng điều kiện công việc, kinh tế của bên cấp dưỡng. Trong trường hợp của ông T hiện nay thì thấy công việc làm ổn định tại nhà, có thu nhập hàng tháng nên cần buộc ông T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000đồng là phù hợp.

[8] Về tài sản chung: Bà L và ông T xác định không có tài sản chung nên HĐXX không đề cập giải quyết.

[9] Về nợ chung: Bà L và ông T xác định không có nợ chung nên HĐXX không đề cập giải quyết.

[10] Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm : 300.000 đồng bà L phải chịu theo quy định của pháp luật.

[11] Án phí dân sự sơ thẩm về việc cấp dưỡng nuôi con định kỳ 300.000đồng ông T phải chịu.

[12] Đối với ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, Tp Đà Nẵng thấy phù hợp với quy định của pháp luật, phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc xin ly hôn của bà Nguyễn Thị L đối với ông Phan Đức T.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Nguyễn Thị L được ly hôn với ông Phan Đức T.

2. Về nuôi con chung:

- Giao con chung là Phan Nguyễn Thùy T, sinh ngày 01/01/2013 cho bà Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con trưởng thành đủ 18 tuổi. Buộc ông Phan Đức T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng). Thời gian thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con kể từ tháng 11/2019 cho đến khi con trưởng thành đủ 18 tuổi.

Cả hai bên đương sự đều được thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Khi cần thiết vì lợi ích con chung các bên đương sự có quyền xin thay đổi người nuôi con hoặc yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Án phí HNGĐ sơ thẩm 300.000 đồng bà L phải chịu. Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng biên lai thu số 7964 ngày 15 tháng 7 năm 2019.

Án phí dân sự sơ thẩm về việc cấp dưỡng nuôi con định kỳ 300.000đồng ông Phan Đức T phải chịu.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yếu tại nơi thường trú.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các điều 6,7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi Hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 40/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:40/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;