TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 40/2019/DS-PT NGÀY 22/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 58/2019/TL-DSPT ngày 26 tháng 7 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 15/2019/DS-ST ngày 30/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong, tỉnh Đăk Nông bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 54/2019/QĐ-PT ngày 02 tháng 8 năm 2019. Giưa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH MTV Y, địa chỉ: Số 744B, Quốc lộ 20, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Văn Y – Chức vụ: Giám đốc – Có đơn xin giải quyết vắng mặt.
- Bị đơn: Ông Giàng Minh C và bà Hoàng Thị M;
Người đại diện theo ủy quyền của bà Hoàng Thị M là ông Giàng Minh C, cùng địa chỉ: Thôn 5, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Theo giấy uỷ quyền ngày 04/3/2019 – Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Giàng A P, địa chỉ: Thôn 5, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
- Người kháng cáo: Ông Giàng Minh C - Là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 06/12/2018 và trong quá trình giải quyết ông Trần Yên T người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH MTV Y trình bày:
Năm 2017, Công ty TNHH MTV Y, (gọi tắt là Công ty) tổ chức hội thảo giới thiệu sản phẩm phân bón của Công ty làm từ phân heo (phân hữu cơ vi sinh) trên địa bàn xã Đ. Sau buổi hội thảo, ông Giàng Minh C và bà Hoàng Thị M mua 03 tấn phân của Công ty giá bán 3.900.000 đồng/tấn với tổng số tiền là 11.700.000 đồng, cho trả chậm đến ngày 25/12/2017 (dương lịch). Ông C, bà M và ông Giàng A P (trưởng thôn) ký vào đơn xin mua phân bón trả chậm kiêm giấy cam kết trả nợ đề ngày 24/5/2017. Việc thanh toán tiền cho Công ty thông qua ông Giàng A P, quá thời hạn trả tiền phải chịu lãi suất 1,5%/tháng, đến thời hạn thanh toán nhưng ông C, bà M vẫn không trả tiền. Vì vậy, Công ty yêu cầu ông C, bà M cùng với ông Giàng A P phải liên đới trả cho Công ty số tiền 13.718.000 đồng (Trong đó tiền gốc là gốc là 11.700.000 đồng và 2.018.000 đồng tiền lãi tính từ ngày 26/12/2017 đến ngày 06/12/2018).
Quá trình giải quyết, Công ty đã có ý kiến thay đổi không yêu cầu ông Giàng A P phải chịu trách nhiệm liên đới thanh toán cho Công ty khoản tiền trên, chỉ yêu cầu ông Giàng Minh C và bà Hoàng Thị M phải trả cho Công ty 13.718.000 đồng (BL 57).
Bị đơn ông Giàng Minh C cũng là người đại diện theo ủy quyền của bà Hoàng Thị M trình bày:
Ông bà thừa nhận có mua của Công ty TNHH MTV Y 03 tấn phân bón với giá 3.900.000 đồng/tấn như người đại diện theo pháp luật của Công ty đã trình bày. Tuy nhiên, sau khi nhận phân ông bà đã sử dụng 35 bao để bón cho cây cà phê, nhưng cây bị vàng và rụng lá, nên số còn lại ông không bón nữa. Vì vậy, ông bà không đồng ý thanh toán tiền cho Công ty vì phân bón kém chất lượng, gây thiệt hại cho gia đình ông, nên đề nghị được trả cho Công ty số phân bón còn lại ông bà Ca sử dụng đến. Về tiền lãi, do Công ty không đến thu tiền theo thỏa thuận nên ông bà không đồng ý trả.
Việc ông bà mua phân bón của Công ty không liên quan đến ông Giàng A P, ông P chỉ là người dẫn nhân viên Công ty đến từng nhà để họ giao phân bón. Hiện nay, các hộ dân trên địa bàn xã Đ đã làm đơn tố cáo tập thể đối với chất lượng phân bón của Công ty, nếu sau này chứng minh được phân bón của Công ty không đảm bảo chất lượng và gây thiệt hại thì ông bà sẽ yêu cầu trong vụ án hình sự hoặc khởi kiện bằng vụ án khác.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Giàng A P trình bày:
Năm 2017, Công ty có tổ chức hội thảo giới thiệu phân bón vi sinh làm từ phân heo. Sau buổi hội thảo Công ty cho người dân đăng ký mua phân bón và cam kết sẽ giao tận nhà cho họ và cho nợ tiền đến ngày 25/12/2017. Ông C và bà M trực tiếp đăng ký mua phân bón với Công ty; ông P và Công ty có thỏa thuận miệng với nhau về việc ông đi cùng nhân viên của Công ty khi giao phân bón và khi Công ty đi thu tiền, Công ty trả tiền cho ông 300.000 đồng/tấn bán được nhưng ông không được nhận; sau khi giao phân bón, phía Công ty yêu cầu ông ký tên vào hợp đồng kiêm phiếu giao nhận hàng hóa, trong đó ông C, bà M mua 03 tấn. Từ khi giao phân bón cho đến nay Công ty không đến liên hệ với ông để đi thu tiền; Công ty có đưa cho ông ký tên một biên bản đối chiếu và xác nhận công nợ nhưng ông không ký, chữ ký trong biên bản đối chiếu không phải chữ ký của ông. Hiện nay Công ty không yêu cầu ông phải chịu trách nhiệm liên đới với ông C, bà M để trả số tiền ông C, bà M còn nợ, nên ông không có ý kiến gì.
Tại bản án số: 15/2019/DS-ST ngày 30/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đăk Nông đã quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV Y, buộc ông Giàng Minh C và bà Hoàng Thị M phải thanh toán cho Công ty 11.700.000 đồng (Mười một triệu bảy trăm nghìn đồng).
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty đối với 2.018.000 đồng (Hai triệu không trăm mười tám nghìn đồng) tiền lãi.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về lãi suất chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 11/6/2019, ông Giàng Minh C kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và cho rằng do Công ty bán phân bón giả, kém chất lượng làm cây trồng bị vàng và rụng lá, gây thiệt hại cho gia đình. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu khởi kiện của Công ty.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông phát biểu ý kiến: Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự tại Toà án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ có trong hồ sơ, kết quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Giàng Minh C, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Xét yêu cầu kháng cáo của ông Giàng Minh C, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình giải quyết vụ án, ông C, bà M thừa nhận vào năm 2017, ông bà có mua 03 tấn phân bón của Công ty TNHH MTV Y, giá 3.900.000 đồng/tấn, thành tiền là 11.700.000 đồng, thời hạn thanh toán vào ngày 25/12/2017, nếu quá thời hạn mà không thanh toán thì phải chịu lãi suất quá hạn 1,5%/tháng. Như vậy, việc thoả thuận mua bán tài sản giữa các bên là phù hợp pháp luật quy định tại Điều 430 của Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, đến nay ông C, bà M vẫn không thanh toán tiền cho Công ty là vi phạm nghĩa vụ trả tiền quy định tại Điều 440 của Bộ luật dân sự. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm buộc ông C, bà M phải trả cho Công ty TNHH MTV Y 11.700.000 đồng tiền gốc là có căn cứ, đúng pháp luật. Do đó, ông C kháng cáo là không có căn cứ, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[2]. Quá trình giải quyết ông C, bà M không cung cấp được chứng cứ gì chứng minh Công ty sản xuất và bán phân bón giả làm cây trồng bị chết, gây thiệt hại kinh tế cho gia đình ông. Căn cứ vào biên bản làm việc ngày 07/12/2016 của Thanh tra Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Lâm Đồng kết luận: “Sản phẩm phân bón có khả năng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng, hàm lượng kim loại nặng không ảnh hưởng đến môi trường” (BL 15, 16). Mặt khác, vào ngày 24/12/2018, cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đăk Nông nhận được đơn của 130 hộ dân trú tại thôn 1, thôn 2, thôn 3 thuộc xã Đ, huyện Đ tố cáo doanh nghiệp tư nhân Y có hành vi sản xuất phân bón giả, lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Sau kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm, ngày 01/8/2019, cơ quan điều tra Công an tỉnh Đăk Nông đã ban hành quyết định không khởi tố vụ án hình sự đối với đơn tố cáo của các hộ dân thuộc xã Đ và xã Đ1, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông tố cáo doanh nghiệp tư nhân Yên T (do ông Trần Văn Y làm chủ doanh nghiệp) có hành vi sản xuất phân bón giả, lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, không có căn cứ xác định cây trồng của gia đình ông C bị chết là do sử dụng phân bón của Công ty TNHH MTV Y sản xuất gây ra.
[3]. Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông tại phiên toà là có căn cứ, Hội đồng xét xử cần chấp nhận.
[4]. Về án phí phúc thẩm: Ông C, bà M là người đồng bào dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Miễn toàn án phí dân sự phúc thẩm cho ông Giàng Minh C.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 430, Điều 440, Điều 453 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Giàng Minh C. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 15/2019/DS-ST ngày 30/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV Y.
Buộc ông Giàng Minh C và bà Hoàng Thị M phải thanh toán cho Công ty TNHH MTV Y 11.700.000 đồng (Mười một triệu bảy trăm nghìn đồng).
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV Y đối với số tiền lãi là 2.018.000 đồng (Hai triệu không trăm mười tám nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi h ành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Miễn toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với ông Giàng Minh C và bà Hoàng Thị M.
Công ty TNHH MTV Y phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, được khấu trừ 343.000 đồng (ba trăm bốn mươi ba nghìn) tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm Công ty đã nộp theo biên lai số 0003855 ngày 10 tháng 01 năm 2019, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông. Hoàn trả cho Công ty TNHH MTV Y 43.000 (Bốn mươi ba nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp.
4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Miễn toàn bộ tiền án phí dân sự phúc thẩm đối với ông Giàng Minh C và bà Hoàng Thị M.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 40/2019/DS-PT ngày 22/08/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản
Số hiệu: | 40/2019/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 22/08/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về