Bản án 40/2018/HS-ST ngày 09/10/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CON CUÔNG - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 40/2018/HS-ST NGÀY 09/10/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Nhà văn hóa cộng đồng xã Bồng Khê, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 42/2018/TLST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2018/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 9 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Lô Văn T - sinh ngày 03 tháng 02 năm 1976 tại huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Tên gọi khác: không. Nơi cư trú: Bản NC, xã BC, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lô Văn Ch và bà Trịnh Thị L; vợ là Kha Thị L và có 03 người con, con lớn nhất sinh năm 1998, con nhỏ nhất sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: không; bị bắt bị bắt tạm giữ từ ngày 21/6/2018 đến ngày đến ngày 30/6/2018 chuyển tạm giam hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An. Bị cáo có mặt.

2. Chu Văn Th - sinh ngày 02 tháng 4 năm 1987 tại huyện QH, tỉnh Nghệ An. Tên gọi khác: không. Nơi cư trú: Bản Q, xã NS, huyện QH, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chu Huy Ch và bà Lo Thị X; vợ là Lương Thị Đ và có 01 người con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không; bị bắt bị bắt tạm giữ từ ngày 21/6/2018 đến ngày đến ngày 30/6/2018 chuyển tạm giam hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An. Bị cáo có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Hà Văn Thg, sinh năm 2000 - Vắng mặt.

Địa chỉ: Xóm TT, xã CT, huyện QH, tỉnh Nghệ An.

2. Anh Sầm Văn L, sinh năm 1991 - Vắng mặt.

3. Anh Lang Văn Đ, sinh năm 1997 – Vắng mặt.

Đều có địa chỉ: Xóm YL, xã CQ, huyện QH, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 6 giờ ngày 21/6/2018, Lô Văn T đi xe máy một mình đến bãi tha ma ở xã NM, huyện TD, tỉnh Nghệ An với mục đích mua ma túy về sử dụng và bán kiếm lời. Khi đến nơi, T gặp người đàn ông không quen biết, tên tuổi, địa chỉ, T mua ma túy của người đàn ông đó với số tiền 1.000.000 đồng. Mua xong, T đi đến nhà của Chu Văn Th gọi Th đến để làm việc cho T. Sau khi đến nhà Th, T cùng với Th đi đến lán của T ở khu vực Na Ta Pha thuộc Bản NC, xã BC, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Khoảng 10 giờ cùng ngày khi T và Th về đến lán của T thì nhìn thấy 03 người đàn ông là Hà Văn Thg, sinh năm 2000, trú tại xóm TT, xã CT, huyện QH, tỉnh Nghệ An; Sầm Văn L, sinh năm 1991 và Lang Văn Đ, sinh năm 1997, đều có địa chỉ tại Xóm YL, xã CQ, huyện QH, tỉnh Nghệ An đang ngồi dưới lán của T. Gặp Thg, Đ, L, T hỏi: “Đi mô đó?” thì L nói: “Anh còn hàng không để cho em ít em sắp chết rồi” (Ý L hỏi T có heroin bán không L đang Ln cơn nghiện). T nói Th lấy tiền của L đưa vào cho T còn L, Thg, Đ chờ ở gian khách. Th liền lấy của L số tiền 300.000 đồng đưa vào cho T, T cầm tiền rồi đưa cho Th 01 gói nhỏ bên ngoài được gói bằng mảnh bao Potylen màu đen đưa ra cho L. Sau khi L mua ma túy xong, Đ tiếp tục hỏi: “Anh còn hàng không? Để cho em hai trăm” (Ý Đ hỏi T còn ma túy không bán cho Đ 200.000 đồng T trả lời: “Còn”. Đ liền đưa cho Th 200.000 đồng. Th cầm tiền rồi đưa vào cho T, T đưa cho Th 01 gói nhỏ bên ngoài được gói bằng mảnh bao Potylen màu đen và nói Th đưa ra cho Đ. Mua ma túy xong, L và Đ lấy ra sử dụng ngày tại lán của T nhưng T không nhìn thấy. Sau đó Thg cũng đưa cho Th số tiền 150.000 đồng để mua ma túy sử dụng, Th cầm tiền đưa vào trong cho T, T đưa cho Th 01 gói nhỏ bên ngoài gói bằng mảnh bao Potylen màu đen đưa ra cho Thg. Mua ma túy xong L, Đ, Thg đi về nhà. Sau khi bán ma túy cho L, Đ và Thg xong T lấy một ít ma túy đưa cho Th sử dụng và T cũng lấy ra một ít để sử dụng. Số ma túy còn lại T cất để lần sau bán tiếp. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, Thg đưa số ma túy còn lại đến sân bóng của bản Pạn, xã Châu Lý, huyện QH, tỉnh Nghệ An để sử dụng bằng hình thích thì bị lực lượng Công an huyện QH, tỉnh Nghệ An đang làm nhiệm vụ phát hiện, kiểm tra và thu giữ trên tay của Thg 01 bơm kim tiêm bên trong có chứa 01 ít dung dịch màu trắng đục, thu giữ dưới nên đất nơi Thg ngồi 01 vỏ ống Th tinh có chữ màu đỏ NOVOCAIN đã sử dụng, 01 mảnh bao Potylen màu đen. Sau đó lực lượng Công an đã tiến hành lập biên bản sự việc và đưa Thg về trụ sở làm việc.

Trên cơ sở lời khai của Thg, Công an huyện QH đã triệu tập L và Đ đến làm việc. Căn cứ lời khai của Thg, L và Đ, vật chứng thu giữ chiều cùng ngày (21/6/2018) Cơ quan Cảnh sát điều tra Công anh huyện QH, tỉnh Nghệ An đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Lô Văn T tại khu vực Na Ta Pha thuộc Bản NC, xã BC, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An và Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Qua khám xét thu giữ trong ví da của T 01 gói chất bột nén màu trắng bên ngoài gói bằng bao Potylen màu đen, được buộc bằng bằng dây chun màu đỏ, T khai nhận đó là ma túy T tàng trữ để bán, thu giữ trong ví da màu nâu tại túi quần phía sau T đang mặc số tiền: 1.850.000 đồng (Một triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng) tiền; 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu X Phone màu xanh, đen; 01 khẩu súng tự chế loại súng kíp bằng kim loại, chiều dài 1,25m, màu đen; 01 chiếc cân tiểu ly, có vỏ ốp ngoài bằng gỗ.

Ngày 23/6/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện QH ra quyết định trưng cầu giám định vật chứng 01 (một) bơm kim tiêm bên trong có chứa dùng dịch màu trắng đục ghi thu của Hà Văn Thg (ký hiệu M1) và Chất bột nén màu trắng thu giữ của Lô Văn T (ký hiệu M2). Tại Kết luận giám định số: 872/KL-PC54(MT) ngày 28 tháng 6 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Dung dịch màu trắng đục trong bơm kim tiêm (ký hiệu M1) thu giữ của Hà Văn Thg gửi tới giám định là dung dịch ma túy (dung dịch Heroin); Mẫu chất bột nén màu trắng (ký hiệu M2) thu giữ của Lô Văn T gửi tới giám định là ma túy (Heroin) có khối lượng là 0,420g.

Ngày 23/6/2018, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QH đã ra quyết định trưng cầu giám định đối với khẩu súng có chiều dài 1,25m, nòng bằng kim loại màu đen, báng súng làm bằng gỗ màu nâu thu giữ tại lán của Lô Văn T. Tại bản Kết luận giám định số: 194/PC54-GĐKTHSTT ngày 27/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Khẩu súng thu giữ của Lô Văn T gửi đến giám định là súng kíp tự chế - thuộc súng săn. Không phải là vũ khí quân dụng và không có tính năng tương tự như vũ khí quân dụng.

Cáo trạng số: 43/CT-VKS-CC ngày 24/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Con Cuông đã truy tố bị cáo Lô Văn T và Chu Văn Th về tội “Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Tỏ ra ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Người bào chữa cho các bị cáo trình bày lời bào chữa: Đồng ý với bản luận tội của Viện kiểm sát nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng sâu vùng xa, nhận thức về pháp luật còn hạn chế; trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tính chất của vụ án là đòng phạm giản đơn, không có sự bàn bacvj, phân công cụ thể nào; gia đình các bị cáothuộc diện hộ ngheo nên cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất, đồng thời miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố và đề nghị:

Về hình sự:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Lô Văn T mức án từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù.

- Xử phạt bị cáo Chu Văn Th mức án từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

Về vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ vật chứng của vụ án. Đối với số tiền 6500.000 đồng các bị cáo bán chất ma túy cho Thg, L và Đ là tiền thu lợi bất chính nên cần truy thu, sung quỹ Nhà nước.

Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

- Trong quá trình điều tra: Cơ quan điều tra, Điều tra viên được phân công điều tra đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng về việc kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ, lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; lập hồ sơ vụ án; hỏi cung bị can; xử lý vật chứng; giao nhận các văn bản tố tụng đúng thời hạn theo quy định của pháp luật.

- Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện nghiêm túc hoạt động kiểm sát điều tra; giao nhận các văn bản tố tụng đúng thời hạn theo quy định của pháp luật; tham gia phiên tòa đúng thời gian, địa điểm; công bố bản cáo trạng; tham gia xét hỏi, luận tội, tranh luận và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án đồng thời thực hiện việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án cũng như người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử.

- Người bào chữa cho các bị cáo, các bị cáo, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Do các hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên và Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đều tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên hợp pháp và được sử dụng làm chứng cứ để Hội đồng xét xử xem xét.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Lô Văn T và Chu Văn Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 10 giờ đến khoảng 10 giờ 40 phút ngày 21/6/2018, tại lán của Lô Văn T ở Bản NC, xã BC, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An, T và Chu Văn Th đã có hành vi 03 lần bán trái phép chất ma túy cho 03 đối tượng nghiện ma túy gồm Hà Văn Thg, Sầm Văn L và Lang Văn Đ. Cùng ngày T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,420g ma túy với mục đích mua bán để kiếm lời. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý. Như vậy Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Lô Văn T và Chu Văn Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất vụ án: Vụ án thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an trên địa bàn mà còn gây tác hại cho sức khỏe con người, làm suy thoái giống nòi, phá hoại hạnh phúc gia đình và tiềm ẩn nguy cơ phát sinh nhiều loại tội phạm khác.

Đối với bị cáo T là người trực tiếp mua ma túy về để bán. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy đã lâu, nhằm thõa mãn nhu cầu cá nhân bị cáo đã mua ma túy về để bán với mục đích kiếm lời, chỉ trong một thời gian ngắn bị cáo đã có hành vi bán ma túy cho nhiều đối tượng nghiện ngay tại lán của mình chứng tỏ bị cáo là con người liều lĩnh, coi thường pháp luật. Do vậy cần phải xử lý nghiêm minh hành vi phạm tội của bị cáo để có tác dụng giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Đối với bị cáo Th tuy không trực tiếp đi mua ma túy cùng T nhưng để có ma túy sử dụng bị cáo sẵn sàng giúp đỡ T bán ma túy cho các đối tượng nghiện một cách tích cực chứng tỏ bị cáo là con người lười lao động, hám lợi bất chính, coi thường pháp luật. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm minh, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo lao động, cải tạo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bản thân các bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ nhận thức về pháp luật còn hạn chế nên cần giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, hoàn cảnh gia đình khó khăn, thuộc diện hộ nghèo, thu nhập thấp, tài sản không có giá trị lớn nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

[4] Về vật chứng:

- Thu giữ tại T 01 khẩu súng kíp tự chế - súng săn, ngày 07/8/2018 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện QH đã ra quyết định sử lý vật chứng chuyển khẩu súng kíp tự chế thuộc súng săn cho Đội quản lý hành chính an ninh trật tự huyện Con Cuông xử lý theo thẩm quyền;

- 01 bơm kim tiêm; 02 vỏ bao niêm phong, 01 lọ Th tinh; 02 mảnh bao potylen màu đen; 01 chiếc cân tiểu ly vỏ bằng gỗ là những vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy;

- Thu tại Lô Văn T 0,420g heroin sau khi lấy mẫu đi giám định còn lại 0,370g Heroin là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 650.000đ (Sau trăm năm mươi ngàn đồng) của Lô Văn T do bán ma túy mà có.

- Hoàn trả cho bị cáo Lô Văn T 01 điện thoại Xphone màu đen và số tiền 1.250.000đ (Một triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng).

Trong quá trình điều tra Lô Văn T khai nhận số Heroin T và Th đã bán cho Sầm Văn L, Lang Văn Đ, Hà văn Thắm là T mua của một người đàn ông không quen biết tuổi địa chỉ ở xã NM, huyện TD. Hiện cơ quan điều tra chưa xác minh được lai lịch của người đàn ông đó. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý sau.

Còn đối với Hà Văn Thg, Sầm Văn L, Lang Văn Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tuy nhiên trong quá trình điều tra do các đối tượng đã sử dụng số ma túy đã mua của T và Th không xác định được khối lượng nên chưa đủ cơ sở để xử lý hình sự đối với L, Đ và Thg về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Tuyên bố bị cáo Lô Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Lô Văn T 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/6/2018.

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Tuyên bố bị cáo Chu Văn Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Chu Văn Th 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/6/2018.

- Vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 04 phong bì thư bưu điện loại đang lưu hành đã được niêm phong bên trong có: 01 bơm kim tiêm; 02 vỏ bao niêm phong, 01 lọ Th tinh; 02 mảnh bao potylen màu đen; 01 chiếc cân tiểu ly vỏ bằng gỗ là những vật không có giá trị sử dụng;

Tịch thu, tiêu hủy 0,370g heroin là vật nhà nước cấm lưu hành.

Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 650.000đ (Sau trăm năm mươi ngàn đồng) của Lô Văn T do bán ma túy mà có.

Hoàn trả cho bị cáo Lô Văn T 01 điện thoại Xphone màu đen và số tiền 1.250.000đ (Một triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng).

Toàn bộ vật chứng nêu trên có đặc điểm được ghi tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/8/2018 giữa Công an huyện Con Cuông và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Con Cuông.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý va sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc các bị cáo Lô Văn T và Chu Văn Th mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 40/2018/HS-ST ngày 09/10/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:40/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Con Cuông - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;