Bản án 40/2018/HS-PT ngày 09/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 40/2018/HS-PT NGÀY 09/05/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 27/2018/TLPT-HS ngày 27 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo Hà Văn M do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 02/2018/HS-ST ngày 24/01/2018 của Toà án nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông.

Bị cáo có kháng cáo: Hà Văn M (tên gọi khác M chó), sinh năm 1985, tại Thành phố Hà Nội; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 14B, đường T, phường N, thị xã S, Thành phố Hà Nội; nơi cư trú: Không có nơi ở nhất định; nghề nghiệp: Chạy xe ôm; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn H (đã chết) và bà Phan Thị H; vợ là Nguyễn Phạm Đang K và 01 con; tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số: 54/2015/HS-ST ngày 30-9-2015 của Toà án nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt nhưng chưa được xoá án tích; nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số: 33/2006/HS-ST ngày 17-5-2006 của Toà án nhân dân thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án hình sự sơ thẩm số: 20/2008/HS-ST ngày 29-02-2008 của Toà án nhân dân thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án hình sự sơ thẩm số: 98/2009/HS-ST ngày 15-9-2009 của Toà án nhân dân thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội xử phạt 15 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”; Bản án hình sự sơ thẩm số: 05/2012/HS-ST ngày 16-01-2012 của Toà án nhân dân huyện Đắk G’long, tỉnh Đắk Nông xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; bị bắt tạm giam ngày 19-10-2017 - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ ngày 06-10-2017, Hà Văn M điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, kiểu dáng Sirius không rõ biển kiểm soát (M mượn xe của đối tượng tên D, chưa rõ nhân thân, lai lịch), đi từ hồ V thuộc Tổ 10, phường N, thị xã G dọc theo quốc lộ 14 hướng về thị trấn K, huyện Đ, đến đoạn đường vào Trường Trung cấp nghề tỉnh Đắk Nông thuộc Tổ 4, phường N1, thị xã G thấy phía bên trái đường có nhiều gỗ mít đã được xẻ thành từng phách hộp hình chữ nhật của gia đình anh Chu Văn T và vợ là chị Nguyễn Thị H không có người trông coi nên M lần lượt bê từng phách gỗ cho lên xe mô tô rồi chở đi cất giấu tại một bãi đất trống gần tiệm sửa xe P thuộc Tổ 7, phường N2, thị xã G. Đến khoảng 05 giờ sáng cùng ngày, M chở được 23 phách gỗ mít và sợ bị phát hiện nên dừng lại tìm thuê xe ba gác chở số gỗ trên đi bán.

Sau đó M đi gặp D và nhờ D phụ giúp rồi M hứa cho D ít tiền thì được D đồng ý. Cả hai chạy xe đến ngã ba S thuộc Tổ 2, phường N1, thị xã G thì gặp và thuê một nam thanh niên (chưa rõ nhân thân lai lịch) là tài xế chạy xe ba gác. M và D cùng nhau bốc hết số gỗ trên xe, sau đó M lên xe ngồi cùng tài xế chở gỗ đi theo đường tránh nội thị G đến xã Đ, thị xã G để bán, D chạy xe mô tô phía sau.

Cùng lúc, anh Chu Văn T điều khiển xe mô tô đi tìm gỗ thì phát hiện nên bám theo M. M nghi anh Chu Văn T là chủ gỗ đã phát hiện mình nên M nhảy xuống khỏi xe ba gác và lên xe mô tô của D đi lạng lách, đánh võng phía trước. Đi được khoảng 01 km, M cúp cua chặn ngang đầu xe của anh Chu Văn T và xuống xe lấy một tuốc nơ vít có sẵn trên xe mô tô khua qua khua lại trước mặt anh Chu Văn T nhằm hăm doạ, ngăn chặn không cho anh Chu Văn T đuổi theo. Vì sợ nên anh Chu Văn T buông xe bỏ chạy, hô cướp và sau đó thì bị ngã. Lúc này D rút chìa khoá xe của anh T còn M dùng chân đạp một phát vào người anh Chu Văn T, sau đó anh Chu Văn T đứng dậy và hô cứu.

Cùng thời gian này, anh Trương Minh T cư trú tại Tổ 5, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông chứng kiến toàn bộ sự việc, nghe anh Chu Văn T hô cướp nên anh Trương Minh T quay đầu xe và chở anh Chu Văn T tiếp tục đuổi theo M. Đến khu vực ngã ba giao với quốc lộ 28 cũ, M phát hiện anh Trương Minh T chở anh Chu Văn T đang đuổi theo mình, M tiếp tục lạng lách, đánh võng cản đường không cho anh Trương Minh T vượt lên. Sau đó, quay đầu xe đối đầu với xe anh Trương Minh T, hai xe cách nhau khoảng 02m. M cầm tuốc nơ vít trên tay và hù doạ anh Trương Minh T nên anh Trương Minh T sợ, không dám đuổi theo.

D chở M tiếp tục chạy theo xe ba gác chở gỗ đến nhà chị Nguyễn Thị N cư trú tại tổ 5, phường N3, thị xã G để bán. Vì không có ai đo gỗ nên chị Nguyễn Thị N không mua. M đã gửi số gỗ này tại nhà chị Nguyễn Thị N hẹn hôm sau quay lại bán và mượn chị Nguyễn Thị N 500.000 đồng để trả cho tài xế ba gác 300.000 đồng và cho D 200.000 đồng.

Ngày 19-10-2017, Hà Văn M đến Cơ quan cảnh Cảnh sát điều tra Công an thị xã Gia Nghĩa đầu thú về hành vi phạm tội của mình.

Tại kết luận giám định ngày 12-10-2017 của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Đắk Nông kết luận số gỗ trên có khối lượng 0,78m3, là gỗ mít thuộc nhóm IV.

Tại kết luận định giá ngày 20-10-2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Gia Nghĩa kết luận: Số gỗ trên trị giá 10.106.000 đồng.

Bản án hình sự sơ thẩm số: 02/2018/HS-ST ngày 24-01- 2018 của Toà án nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông quyết định: Tuyên bố bị cáo Hà Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 138; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Hà Văn M 03 năm tù. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo.

Ngày 06-02-2018, bị cáo Hà Văn M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Hà Văn M vẫn khai nhận hành vi phạm tội của mình như tại cơ quan điều tra và phiên toà sơ thẩm, bị cáo thừa nhận Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm đ khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật, không oan.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông sau khi phân tích các chứng cứ buộc tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Hà Văn M, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

Bị cáo không bào chữa, tranh luận gì chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Bản án hình sự sơ thẩm số: 02/2018/HS-ST ngày 24-01- 2018 của Toà án nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông đã kết án bị cáo Hà Văn M về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm đ khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo của bị cáo Hà Văn M, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo M đã 05 lần phạm tội và trong đó đang còn tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” mà lại tiếp tục phạm tội nhưng Toà án cấp sơ thẩm đánh giá bị cáo ăn năn hối cải là không phù hợp, không đúng với bản chất của bị cáo. Xét thấy mức hình phạt 03 năm tù mà Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Tại cấp phúc thẩm bị cáo cũng không cung cấp thêm tình tiết gì mới. Do đó, Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

[3]. Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

 [4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hà Văn M, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 02/2018/HS-ST ngày 24-01-2018 của Toà án nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông về phần hình phạt.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 138; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 1999; xử phạt bị cáo Hà Văn M 03 (Ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19-10-2017.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; áp dụng điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Hà Văn M phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

304
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 40/2018/HS-PT ngày 09/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:40/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;