Bản án 399/2019/HSPT ngày 29/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 399/2019/HSPT NGÀY 29/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 29 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 316/2019/TL. HSPT ngày 07 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo: Nguyễn Phúc H do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 64/2019/HSST ngày 02/04/2019 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Phúc H, sinh ngày 19/10/1996 tại Thành phố Hà Nội; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: nhân viên quán Bar Fame; Trình độ văn hóa: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Nguyễn Tịnh M và bà Võ Thị M Duyên; Danh chỉ bản số 000000486, lập ngày 17/10/2018 tại công an quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội; Tiền án, tiền sự: không; Giữ người trong trường hợp khẩn cấp và tạm giữ từ ngày 12/10/2018; Tạm giam ngày 21/10/2018; Có mặt.

- Trong vụ án còn có các bị cáo Phạm Minh Ng; Nguyễn Lâm T không kháng cáo; Viện kiểm sát không kháng nghị bản án sơ thẩm.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 23 giờ 20 phút ngày 11/10/2018, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an quận Hoàn Kiếm phối hợp với Công an phường Trần Hưng Đạo kiểm tra cơ sở kinh doanh quán Bar FAME ở số 25 phố Ngô Văn Sở, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội. Khi kiểm tra tại khu vực quầy Bar tầng 1 là nơi làm việc của Nguyễn Lâm Tùng và Nguyễn Phúc H, tổ công tác thu giữ trên nóc tủ kính treo tường: 01 túi vải màu đỏ vàng bên trong đựng 01 túi nylon màu trắng bên trong chứa thảo mộc khô; 01 túi nylon màu trắng bên trong đựng 02 túi nylon màu trắng chứa thảo mộc khô.

Thu giữ tại ngăn tầng 2 của tủ kính treo tường: 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bằng kim loại đựng 05 điếu thảo mộc khô, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bằng kim loại đựng 02 gói giấy cuốn nhãn hiệu RAW (không dính ma túy), 01 hộp kim loại bên trong chứa thảo mộc khô, 01 gói giấy cuốn nhãn hiệu OCB (không dính ma túy), 01 dụng cụ bằng kim loại hình trụ tròn và 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 7 màu trắng (kèm sim) của Nguyễn Lâm Tùng.

Ngoài ra còn thu giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu vàng trắng của Nguyên Quyên Anh ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu đen của Phạm Ngân Giang; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu hồng (kèm sim) của Phạm Minh Nguyệt; 01 điện thoại di động màu ghi bạc kiểu dáng Iphone 6 (kèm sim) của Nguyễn Phúc H.

Theo kết luận giám định: Số ma túy thu giữ của Nguyễn Lâm Tùng, gồm:

- Tang vật thu giữ trên nóc tủ kính treo tường: Thảo mộc khô bên trong 03 túi nylon đều là Cần sa, có tổng khối lượng 41,876 gam.

- Tang vật thu tại ngăn tầng 2 của tủ kính treo tường: Thảo mộc khô bên trong 05 điếu đều là Cần sa, có tổng khối lượng 2,898gam; thảo mộc khô bên trong 01 hộp kim loại là Cần sa, có khối lượng: 3,085gam; 01 dụng cụ bằng kim loại hình trụ tròn có dính Cần sa; 02 gói giấy cuốn nhãn hiệu RAW và 01 gói giấy cuốn nhãn hiệu QCB đều không dính ma túy.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Lâm Tùng khai nhận: Khoảng 23 giờ 20 phút ngày 11/10/2018, khi Tùng đang làm việc tại quầy Bar của quán PAMER thì Công an vào kiểm tra và thu giữ: Trên nóc tủ kính treo tường 01 túi vải màu đỏ vàng bên trong đựng 01 túi nylon màu trắng chứa thảo mộc khô; 01 túi nylon màu trắng bên trong đựng 02 túi nylon màu trắng chứa thảo mộc khô. Tại ngăn tầng 2 của tủ kính treo tường gồm: 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bằng kim loại đựng 05 điếu thảo mộc khô, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bằng kim loại đựng 02 gói giấy cuốn nhãn hiệu RAW (không dính ma túy), 01 hộp kim loại bên trong chứa thảo mộc khô, 01 gói giấy cuốn nhãn hiệu OCB (không dính ma túy), 01 dụng cụ bằng kim loại hình trụ tròn và 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 7 màu trắng (kèm sim) có số thuê bao 0888839538. Toàn bộ số tang vât thảo mộc khô là Cần sa, giây cuôn và dụng cụ để xay - cuốn Cần sa bị thu giữ là của Phạm Minh Nguyệt gửi tại đây từ ngày 01/10/2018, khi gửi Nguyệt có nói với Tùng và Hiếu là để bán cho khách. Khu vực quầy Bar và tủ kính là khu vực thuộc quản lý của Tùng và Hiếu, nên khi Nguyệt gửi và nhờ cuốn hộ thành điếu để bán cho khách thì cả 2 đã đồng ý và hiểu rằng số thảo mộc để tại đây là ma túy Cần sa nhằm bán trái phép cho khách. Có một lần Tùng cuốn hộ Nguyệt và để vào khu vực quầy Bar, nhưng không biết việc Nguyệt bán cho ai và bán như thế nào. Tùng không tham gia bán ma túy cho Nguyệt, nhưng có thấy Hiếu cuốn Cần sa giúp Nguyệt nhưng không biết cụ thể việc Hiếu bán như thế nào. Từ ngày 08/10/2018 đến ngày 11/10/2018 Tùng đi thành phố Hồ Chí Minh, khi vừa đến làm việc vào buổi tối ngày 11/10/2018 thì Công an đến kiểm tra bắt giữ như đã nêu trên. Tùng khai thỉnh thoảng được Nguyệt cho 100.000 đồng đến 200.000 đồng và đã sử dụng hết. Chiếc điện thoại Iphone 7 màu trắng (kèm sim) là tài sản cá nhân của Tùng, không liên quan đến việc mua bán ma túy.

Nguyễn Phúc H khi mới bị bắt giữ khai: Khi Công an vào kiểm tra quán Bar vào ngày 11/10/2018 Hiếu đang làm tại đây. Cơ quan điều tra đã thu giữ trên nóc tủ kính 01 túi vải màu đỏ vàng bên trong chứa 02 túi nylon đựng thảo mộc cần sa và thu giữ tại ngăn tầng 2 của tủ kính 01 hộp thuốc là Thăng long bên trong có 05 điều thảo mộc Cần sa, 01 vỏ bao thuốc là Thăng Long (bằng kim loại) đựng 2 cuộn giấy cuốn; 01 hộp bằng kim loại bên trong đựng thảo mộc Cần sa cùng 01 cuộn giấy cuốn và 01 dụng cụ bằng kim loại. Hiếu khai toàn bộ số ma túy Cần sa và đồ vật đã thu giữ trên là của Phạm Minh Nguyệt gửi tại quầy Bar làm việc của Tùng và Hiếu để Nguyệt bán cho khách. Bản thân Hiếu đã vài lần xay và cuốn Cần sa thành điều để bán, cụ thể như sau: khoảng 23giờ ngày 06/10/2018 Hiếu đã cuốn giúp Nguyệt 02 điếu Cần sa để Nguyệt bán cho khách. Nhưng đến ngày 18/10/2018 Hiếu thay đổi lời khai và khai những lời khai trước do không đủ tỉnh táo, không biết đã khai gì với Cơ quan điều tra và khai không biết việc Nguyệt cất giấu ma túy Cần sa tại quầy Bar cũng như không có hành vi cuốn Cần sa giúp Nguyệt bán. Khi Nguyệt để đồ tại đây chỉ bảo đó là “cỏ”, Hiếu không biết đó là ma túy. Việc Nguyệt bán ma túy cho ai và bán lúc nào Hiếu không biết cũng như không bán ma túy cho Đỗ Minh Khánh.

Phạm Minh Nguyệt khai phù hợp với lời khai của Tùng và khai: Khoảng 20 giờ ngày 01/10/2018 Nguyệt gặp 01 người đàn ông tên Tuấn (không xác định được nhân thân) tại trước cửa số nhà 25 Ngô Văn Sở, quận Hoàn Kiếm. Tại đây Nguyệt mua 01 túi Cần sa với giá 1.000.000 đồng mục đích để bán thu lời bất chính. Sau khi mua Cần sa, Nguyệt đã gửi túi Cần sa này vào tủ tại quầy Bar và nói với Tùng và Hiếu khi nào có khách hỏi mua thì bán. Đến ngày 02/10/2018 Nguyệt ra phố Nguyễn Siêu - quận Hoàn Kiếm mua 01 dụng cụ cuốn thuốc bằng kim loại, 02 cuộn giấy cuốn nhãn hiệu ROW, 01 cuộn giấy cuốn nhãn hiệu OCB mục đích để xay và cuộn cần sa thành điếu bán cho khách. Nguyệt gửi tại tủ quầy Bar và nhờ Hiếu và Tùng xay, cuốn thành điếu giúp Nguyệt. Từ khi mua Cần sa về Nguyệt đã bán được 03 lần cho Đỗ Minh Khánh là nhân viên chăm sóc khách hàng của quán FAME. Các lần này Khánh lấy trực tiếp từ Hiếu tại khu vực quầy Bar, cụ thể:

Lần thứ nhất: Hồi 23 giờ ngày 03/01/2018 Khánh mua 01 điếu Cần sa với giá 100.000 đồng, lấy ma túy từ Hiếu tại quầy Bar.

Lần thứ hai: Hồi 23 giờ ngày 09/10/2018 Khánh mua 01 điếu giá 100.000 đồng từ Hiếu.

Lần thứ ba: Hồi 02 giờ ngày 10/10/2018 Khánh mua 02 điếu trực tiếp từ Hiếu, Khánh nhắn tin hỏi mua 02 điếu và đã nhận trực tiếp 02 điếu Cần sa với giá 200.000đồng từ Hiếu nhưng sau đó Khánh đem trả lại Cần sa.

Cả ba lần mua trên Khánh đều chưa trả tiền, việc Hiêu giup Nguyêt ban Cần sa cho Khanh được thể hiện ở tin nhắn thu giữ trong điện thoại của Nguyệt và Hiếu như: “200K thôi nên a lây 1 lá đấy là dc rồi nhé . Câm tiên luôn a nhe” , “Tôi quân cho em hơn chuc điêu nhe”, “ ông Khanh ông y đăt”.

Các tin nhắn bán ma túy Cần sa với Khánh như : “Nguyêt a tôi e bao cuôn trươc a tâm c hục điếu trước nhé” , “Oki a , Htrc a lây 1 điêu rôi nhe” , “Tông a 3 điêu nhe”....(Bút lục: 174 - 215).

Cơ quan điều tra đã triệu tập Đỗ Minh Khánh, thu giữ của Khánh 01 điện thoại Iphone 5 và 01 điện thoại Iphone 6s plus (kèm sim) có số thuê bao 01638383839. Tại Cơ quan điều tra , Đỗ Minh Khánh khai nhận đã ba lần mua ma túy loại Cần sa về để sử dụng, các lần mua Cần sa đều lấy trực tiếp từ Hiếu và chưa thanh toán tiền, lời khai nhận này phù hợp với lời khai của Nguyệt . Ngoài ra Khánh còn thừa nhận các nội dung tin nhắn thu giữ tại máy của Nguyện là nội dung trao đổi mua bán cần sa. Do Khánh mua cần sa để sử dụng và hiện đã sử dụng hết số ma túy nêu trên, nên Cơ quan điều tra không có hình thức xử lý và trao trả cho Khánh 02 chiếc điện thoại nêu trên.

Đối với chiếc điện thoại Iphone 5 màu vàng thu giữ tại quầy là của Nguyễn Quyên Anh và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu đen là của Phạm Ngân Giang . Quyên Anh va Giang là nhân viên quan Bar , khi làm việc đã gửi điện thoại tại đây . Xét không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã trao trả cho Quyền Anh và Giang.

Đi với đối tượng có tên là Tuân đã bán ma túy cho Nguyệt , do không rõ nhân thân, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có điều kiện xác minh làm rõ để xử lý.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 64/2019/HSST ngày 02/4/2019 của Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố: Nguyễn Phúc H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Phúc H 07 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/10/2018. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo Phạm Minh Nguyệt, Nguyễn Lâm Tùng về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”; Biện pháp tư pháp; Án phí và quyền kháng cáo đối với các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 10/4/2019, bị cáo Nguyễn Phúc H có đơn kháng cáo cho rằng bản án sơ thẩm xét xử bị cáo là quá nặng.

Tại phiên toà phúc thẩm:

- Bị cáo Nguyễn Phúc H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Không có ý kiến gì về tội danh; Điều, khoản Luật cấp sơ thẩm đã áp dụng. Bị cáo Hiếu thừa nhận số “cỏ” bị cơ quan công an thu giữ là ma tuý cần sa có tổng trọng lượng là 47,859 gam. Số ma tuý trên là do bị cáo Nguyệt gửi bị cáo và bị cáo Tùng quản lý, cuốn thành các điếu thuốc và bán hộ khi có khách với giá 100.000 đồng một điếu. Bản thân bị cáo đã bán cho Đỗ Minh Khánh là nhân viên của quán Bar Fame 03 lần vào các ngày 03/10/2018; 09/10/2018; 10/10/2018, Khánh không trả tiền cho bị cáo mà trả trực tiếp cho Nguyệt. Bị cáo chỉ bán hộ cho Nguyệt, không được hưởng lợi gì từ việc bán ma tuý. Bị cáo có quan điểm đã khai báo thành khẩn, bản thân ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bản án sơ thẩm đã phạt bị cáo mức án quá nặng nên xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Về hình thức: Bị cáo nộp đơn kháng cáo trong thời hạn Luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận giải quyết yêu cầu kháng cáo của các bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

Về nội dung: Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử: Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo khai nhận hành vi bán ma tuý là cần sa 3 lần cho Đỗ Minh Khánh, phù hợp với lời khai của Khánh và các bị cáo khác nên Toà án cấp sơ thẩm xử phạt Hiếu về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ; Bị cáo bị xét xử lần đầu; Khai báo thành khẩn nên đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo; Tuy nhiên mức án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo; Giữ nguyên bản án sơ thẩm; Các quyết đinh khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Về hình thức:

Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Phúc H nộp trong thời hạn Luật định nên hợp lệ, được chấp nhận xem xét giải quyết yêu cầu kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

Căn cứ lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, cũng như tại phiên toà phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo Nguyệt (bút lục 178, 181, 187,196, 197, 200) về việc đã 03 lần Hiếu bán cần sa hộ Nguyệt; Phù hợp với lời khai của Tùng (bút lục 161) về việc Hiếu cuốn cần sa cho Nguyệt; Phù hợp với lời khai của anh Đỗ Minh Khánh (bút lục 283, 284, 285) về việc anh Khánh đã 03 lần mua cần sa để sử dụng và lấy trực tiếp từ Hiếu, chưa thanh toán tiền; Phù hợp các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Phạm Minh Nguyệt, Nguyễn Phúc H, Nguyễn Lâm Tùng cùng là nhân viên của quán Bar Fame có địa chỉ tại số 25 phố Ngô Văn Sở, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội và có quen biết nhau. Vì muốn kiếm lời bất chính, Phạm Minh Nguyệt đã mua 47,859 gam ma tuý cần sa, giấy cuốn, dụng cụ cuốn thuốc lá, sau đó gửi ma tuý, dụng cụ cuốn thuốc lá tại quầy Bar nơi Hiếu, Tùng làm việc và nhờ Hiếu, Tùng cuốn thành các điếu thuốc rồi bán hộ nếu có người hỏi mua với giá 100.000 đồng một điếu, cả hai đồng ý, Tùng đã cuốn hộ Nguyệt 01 lần; Hiếu đã cuốn và bán cho Khánh 03 lần, cả 03 lần Hiếu bán cần sa cho Khánh đều cho nợ, chưa thu được tiền. Ngày 11/10/2018, Công an quận Hoàn Kiếm kiểm tra khu vực làm việc của Hiếu, Tùng tại quán Bar Fame phát hiện và thu giữ số ma tuý trên.

Với hành vi trên, Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Phúc H về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo, nhận thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Do vậy, phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Nhân thân bị cáo chưa có tiền án tiền sự.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo khai báo thành khẩn hành vi phạm tội của mình; Nhận thức rõ hành vi bán ma tuý cần sa là vi phạm pháp luật và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo lần đầu bị đưa ra xét xử là các tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên xem xét hình phạt cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo nhận thấy tuy tại phiên toà phúc thẩm bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhưng đánh giá tính chất hành vi phạm tội của bị cáo rất nghiêm trọng, mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn, tội phạm có khung hình phạt từ 07 năm đến 15 năm tù. Cấp sơ thẩm đã áp dụng hình phạt tù có thời hạn và xử phạt bị cáo 07 năm tù là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.

I. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Phúc H và Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 64/2019/HSST ngày 02/4/2019 của Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội.

Tuyên bố: Nguyễn Phúc H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự Xử phạt: Nguyễn Phúc H 07 (bẩy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/10/2018.

II. Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Bị cáo Nguyễn Phúc H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

III. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

IV. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án là ngày 29/5/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

386
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 399/2019/HSPT ngày 29/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:399/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;