TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 394/2018/HNGĐ-ST NGÀY 24/07/2018 VỀ LY HÔN GIỮA BÀ L VÀ ÔNG Q
Ngày 24 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân Quận 11 xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 641/2017/TLST-HNGĐ ngày 01/12/2017 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 01/6/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 35/2018/QĐST-HNGĐ ngày 29/6/2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Hứa Bảo L, sinh năm 1994; địa chỉ: đường C, Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh;
Bà L có đơn xin vắng mặt.
2. Bị đơn: Ông Trần Phú Quí, sinh năm 1993; địa chỉ: đường A, Phường H, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh;
Ông Q vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/11/2017 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Hứa Bảo L trình bày:
Bà L và ông Trần Phú Q chung sống với nhau từ năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 6, Quận 11 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 27/2014, quyển số 01/2014, đăng ký ngày 12/5/2014.
Vợ chồng chung sống có 01 con chung tên là Trần Bảo N, sinh ngày 30/4/2016.
Trong quá trình chung sống với nhau, bà L và ông Q xảy ra mâu thuẫn từ khoảng tháng 11/2016, nguyên nhân chủ yếu là do hai bên không hợp tính tình, bất đồng quan điểm nhiều mặt trong cuộc sống nên thường xảy ra cãi vã. Mặc dù cả hai đã cố gắng hòa giải hàn gắn để chung sống với nhau nhưng không có kết quả. Bà L và ông Q đã sống ly thân từ tháng 7/2017 cho đến nay, cả hai không còn sự quan tâm gắn bó gì với nhau. Bà L nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc. Vì vậy, bà L yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông Q để mỗi người sớm có cuộc sống ổn định.
Về con chung: Bà L yêu cầu được nuôi dưỡng trẻ Trần Bảo N, sinh ngày 30/4/2016. Bà L không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Bà L xác định trong quá trình chung sống với ông Q cả hai ông bà không có tài sản chung, không có nợ chung. Không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung.
Tại phiên tòa, bà Hứa Bảo L có đơn xin vắng mặt. Bà L vẫn giữ nguyên yêu cầu như trong Đơn khởi kiện đã nêu và ý kiến bà đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ kiện tại Tòa án.
Về phía bị đơn: Ông Trần Phú Q có đăng ký hộ khẩu thường trú và hiện đang cư trú tại địa chỉ số đường A, Phường H, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh. Toà án nhân dân Quận 11 đã thực hiện thủ tục tống đạt trực tiếp, niêm yết các văn bản tố tụng cho ông Q nhưng ông Q không đến Toà án giải quyết. Do đó, Toà án không thể tiến hành lấy lời khai, hoà giải đối với bị đơn được.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 phát biểu quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án,Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo pháp luật tố tụng. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nhận thấy cuộc sống hôn nhân giữa bà L và ông Q thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, quan điểm sống không phù hợp, cuộc sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Tại các buổi hòa giải ông Q đều không đến, chứng tỏ ông Q cũng không có thiện chí muốn chung sống với bà L. Nay bà L yêu cầu ly hôn với ông Q để ổn định cuộc sống, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 yêu cầu của bà L có cơ sở chấp nhận. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Hứa Bảo L; giao trẻ Trần Bảo N, sinh ngày 30/4/2016 cho bà L nuôi dưỡng, ghi nhận việc bà L không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đai diên Viện kiểm sát nhân dân Quân 11 tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Hứa Bảo L có đơn yêu cầu ly hôn với ông Trần Phú Q, theo đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn và tại Kết quả xác minh của Công an Phường 6, Quận 11 thì ông Trần Phú Q có đăng ký thường trú tại Quận 11. Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Về thủ tục tố tụng: Bà Hứa Bảo L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông Trần Phú Q vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Toà án đã tống đạt hợp lệ nhiều lần các văn bản tố tụng cho ông Trần Phú Q nhưng ông Q đều vắng mặt, không đến Tòa giải quyết. Ông Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa đến lần thứ 2 nhưng đều vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt cả nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Hứa Bảo L và ông Trần Phú Q tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân Phường 6, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 27/2014, quyển số 01/2014, đăng ký ngày 12/5/2014. Quan hệ hôn nhân giữa bà L và ông Q là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Bà L và ông Q chung sống có 01 con chung tên Trần Bảo N, sinh ngày 30/4/2016.
Mâu thuẫn giữa bà L và ông Q phát sinh nguyên nhân chính là do cả hai bất đồng quan điểm nhiều mặt trong cuộc sống mà không thể giải quyết được. Tính cách mỗi người có nhiều sự khác biệt nhưng cả hai không có sự thông cảm, quan tâm và chia sẻ với nhau. Bà L đã về nhà cha mẹ ruột sống, không còn chung sống với ông Q từ tháng 7/2017 cho đến nay. Từ khi bà L và ông Q sống ly thân, không ai quan tâm đến nhau, ông Q cũng không có ý muốn hòa giải với bà L, không đến thăm con, thể hiện tình cảm giữa vợ chồng không còn, không thể chung sống với nhau. Sau khi thụ lý vụ án Tòa án nhiều lần tống đạt các văn bản tố tụng, thông báo cho ông Q đến Tòa án để giải quyết vụ án nhưng ông Q đều vắng mặt nên vụ án không hòa giải được. Bà L xin ly hôn vì mục đích của hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn kéo dài không hàn gắn được, tình cảm của bà L đối với ông Q không còn.
Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho ông Q. Ông Q biết nội dung khởi kiện và yêu cầu của bà L nhưng trong suốt quá trình Tòa án thụ lý đến phiên tòa hôm nay ông Q đều không đến Tòa để giải quyết. Điều đó cho thấy ông Q không có thiện chí muốn hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng.
Qua sự việc đã nêu thể hiện tình trạng hôn nhân giữa bà L và ông Q đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của bà Hứa Bảo L.
[4] Về người trực tiếp nuôi dưỡng con chung: Bà L và ông Q chung sống có 01 con chung tên là Trần Bảo N, sinh ngày 30/4/2016. Theo Kết quả cung cấp chứng cứ ở địa phương thì bà L hiện đang là người nuôi dưỡng trẻ N. Do đó, giao trẻ N cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của bà L không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con.
Ông Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Vì lợi ích của con, việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi.
[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà L xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ghi nhận lời khai của bà L xác định bà và ông Q không có tài sản chung và nợ chung. Nếu sau này các bên có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Hứa Bảo L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:
1. Về hôn nhân:
Chấp nhận yêu cầu của bà Hứa Bảo L. Cho ly hôn giữa bà Hứa Bảo L và ông Trần Phú Q.
Giấy chứng nhận kết hôn số 27/2014, quyển số 01/2014 do Ủy ban nhân dân Phường 6, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 12/5/2014 không còn giá trị pháp lý.
2. Về nuôi con chung:
Giao trẻ tên Trần Bảo N, sinh ngày 30/4/2016 cho bà Hứa Bảo L trực tiếp nuôi dưỡng.
Ghi nhận sự tự nguyện của bà L không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con.
Ông Q được quyền thăm nom và chăm sóc con chung, không ai được quyền cản trở ông Q thực hiện quyền này.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Hứa Bảo L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà L đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AG/2014/0004693 ngày 30/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Về quyền kháng cáo:
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
6. Các quyền và nghĩa vụ thi hành án dân sự của các đương sự được thực hiện tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự (sưa đôi, bô sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự (sưa đôi, bô sung năm 2014)./.
Bản án 394/2018/HNGĐ-ST ngày 24/07/2018 về ly hôn giữa bà L và ông Q
Số hiệu: | 394/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/07/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về