Bản án 39/2021/HS-ST ngày 24/09/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 39/2021/HS-ST NGÀY 24/09/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 24 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 34/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2021/QĐXXST-HS, ngày 06 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Đoàn Văn L, sinh năm 1990 tại tỉnh Đồng Tháp; Nơi cư trú ấp A, xã A, huyện T, Đồng Tháp; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: biết đọc chữ; dân tộc: Kinh; giới tính Nam; tôn giáo: Đạo Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn Đ, sinh năm 1964 và con bà Nguyễn Thị Ánh N, sinh năm 1964; gia đình có 04 anh em, bị cáo là người thứ 3; tiền án: không; tiền sự: không; Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 20, ngày 28 tháng 4 năm 2021 của Công an huyện T.

Bị cáo hiện đang tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Lâm Thanh H, sinh năm 1980 (chết).

- Đại diện hợp pháp của bị hại Lâm Thanh H:

1. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1954 (mẹ ruột).

Địa chỉ: Tổ 5, ấp A, xã A, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của bà L có bà Huỳnh Bảo M, sinh năm 1979.

Địa chỉ: ấp P, xã P, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.

2. Bà Huỳnh Bảo M, sinh năm 1979 (vợ). (có mặt) Địa chỉ: ấp P, xã P, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.

- Người làm chứng:

1. Ông Phạm Văn T, sinh năm 1972; (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp S, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

2. Bà Trần Thị N, sinh năm 1956; (vắng mặt) Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

3. Ông Phan Văn N, sinh năm 1966; (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp X, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

4. Ông Đặng Văn T, sinh năm 1966; (vắng mặt) Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

5. Ông Võ Văn T, sinh năm 1982; (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Khóm U, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

6. Ông Đoàn Văn Đ, sinh năm 1982. (vắng mặt) Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 10 giờ ngày 28/3/2021, Đoàn Văn L không giấy phép lái xe hạng A3 theo quy định, điều khiển xe mô tô ba bánh (loại xe ba gát) không biển kiểm soát, chở ông Phạm Văn T (phụ giúp L bắt heo) chạy từ xã A, huyện T đến huyện T để chở heo thịt về lò giết mổ tập trung thuộc ấp U, xã P, huyện T. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, Đoàn Văn L và T bắt heo tại T xong, L điều khiển xe về tới xã A thì dừng xe cho ông T xuống, rồi tiếp tục điều khiển xe chạy đến lò giết mổ tập trung giao heo.

Khoảng 16 giờ cùng ngày, lúc này tại lò giết mổ có tổ chức uống rượu nên L có xin vào uống khoảng 3 đến 4 ly rượu thì nghĩ, rồi điều khiển xe môtô ba bánh lưu thông trên đường tỉnh lộ ĐT 844 hướng xã P đi xã A để về nhà. Khoảng 17 giờ 30 phút, khi đến cầu Kênh 2/9 thuộc ấp 3, xã P, do mệt và trong người có rượu nên L ngủ gật, đến giữa cầu Kênh 2/ 9 thì không làm chủ được tay lái, xe đâm qua phần đường bên trái hướng đi va chạm với xe môtô nhãn hiệu HONDA, loại xe Wave, màu sơn đen - đỏ, biển số 66G1- 305.17, do anh Lâm Thanh H điều khiển chở cá theo chiều ngược lại, làm người và phương tiện ngã trên mặt cầu. Hậu quả vụ va chạm làm ông H tử vong tại hiện trường.

Vật chứng thu giữ gồm:

Thu giữ của Đoàn Văn L 01 (một) xe môtô ba bánh (ba gát), không có biển số kiểm soát, xe bị hư hỏng, không có số khung, số máy không kiểm tra chất lượng bên trong;

Thu giữ của Lâm Thanh H 01 (một) xe môtô, nhãn hiệu HONDA, loại xe Wave, màu sơn đen - đỏ, mang biển số 66G1- 305.17, xe bị hư hỏng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

Quá trình điều tra đã trao trả xe môtô, nhãn hiệu HONDA, loại xe Wave, màu sơn đen - đỏ, mang biển số 66G1- 305.17 của ông Lâm Thanh H cho bà Huỳnh Bảo M (vợ ông H) là đại diện bị hại nhận lại xong.

Biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông lập lúc 17 giờ 10 phút ngày 28/3/2021 của Cơ quan điều tra Công an huyện T thể hiện như sau: vị trí xảy ra tai nạn trên mặt cầu Kênh 2/9, mặt đường hai chiều thông thoáng không bị hạn chế tầm nhìn, không có dải phân cách, có vạch kẻ tim đường liền nét màu vàng, mặt đường trải nhựa rộng 9,40 mét, từ vạch kẻ tim đường đo vào mép đường là 4,70 mét. Tất cả số liệu lấy lề phải hướng từ xã A đi xã P làm chuẩn. Điểm đụng đo vào lề chuẩn 4,20 mét, tại hiện trường xe mô tô ba bánh, xe môtô biển số 66G1- 305.17 của bị hại H, vết cài của xe đều nằm bên phần đường bên trái theo hướng xe của Đoàn Văn L điều khiển. Căn cứ kết quả khám nghiệm xác định lỗi là do Đoàn Văn L điều khiển xe mô tô ba bánh ngủ gật, không làm chủ được tay lái, đi không đúng phần đường, lấn sang trái 50cm đụng vào xe môtô do ông H điều khiển.

Kết luận giám định số: 357/KL-KTHS ngày 07/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Tháp kết luận: nồng độ cồn trong máu của Đoàn Văn L là 179,4mg/100ml máu.

Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 196/TTh-TTPY, ngày 28/3/2021 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế Đồng Tháp kết luận nguyên nhân chết của ông Lâm Thanh H là do chấn thương sọ não.

Về dân sự: Sau khi vụ việc xảy ra, giữa Đoàn Văn L và đại diện gia đình bị hại là bà Huỳnh Bảo M (vợ ông H) thống nhất thỏa thuận bồi thường các khoản gồm: tiền chi phí mai táng, tổn thất tinh thần, tiền cấp dưỡng nuôi 2 con nhỏ của ông H và các chi phí khác với tổng số tiền là 450.000.000đ. Trong đó, Đoàn Văn L đã đưa cho bà M số tiền 32.000.000 đồng, để cho chi phí mai táng và chôn cất ông H, đã giao nộp tại Cơ quan điều tra số tiền 20.000.000 đồng, còn lại 398.000.000 đồng sẽ khắc phục sau. Đối với số tiền 20.000.000 đồng, Đoàn Văn L nộp khắc phục tại Cơ quan điều tra, hiện nay bà M chưa đến nhận tiền vì lý do bị phong tỏa phòng chống dịch Covid-19.

Đối với xe mô tô ba bánh không biển số do L điều khiển gây tai nạn, ông Đoàn Văn Đ là anh ruột của Văn L mua xe cũ của người lạ làm phương tiện chở thuê, khi mua không làm hợp đồng mua bán, xe không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc, xuất xứ. Cách đây khoảng 07 năm, thấy Đoàn Văn L nuôi cha mẹ già mà không có công ăn việc làm, L nói có giấy phép lái xe nên ông Đ đã cho phương tiện trên cho L làm phương tiện đi chở thuê.

Tại cơ quan điều tra, L khai nhận phù hợp với kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện giao thông, khám nghiệm tử thi, kết quả giám định; lời khai của đại diện bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Bản Cáo trạng số: 35/CT-VKS-TN ngày 26 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, đã truy tố bị cáo Đoàn Văn L về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Đoàn Văn L khai nhận hành vi phạm tội của mình, đúng với nội dung bản cáo trạng đã quy kết và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T tại phiên tòa, sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa cùng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo, đã giữ nguyên quan điểm truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo Đoàn Văn L về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo L từ 3 năm 6 tháng tù đến 4 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 584,585,591 Bộ luật tố tụng dân sự buộc bị cáo Đoàn Văn L phải bồi thường cho bên bị hại số tiền còn lại là 398.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu, hóa giá sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) xe môtô ba bánh (ba gát) của bị cáo, không có biển số kiểm soát, xe bị hư hỏng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông ngày 28/3/2021 và Sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông ngày ngày 28/3/2021, bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 196/TTh-TTPY, ngày 28/3/2021 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế Đồng Tháp. Lời khai đại diện bị hại, người làm chứng, cùng toàn bộ chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận:

Bị cáo Đoàn Văn L không giấy phép lái xe hạng A3 theo quy định. Khoảng 16 giờ cùng ngày, sau khi uống rượu tại lò giết mổ gia súc, bị cáo điều khiển xe 3 gát (loại xe 3 bánh) lưu thông trên đường tỉnh lộ ĐT 844 hướng xã P đi xã A để về nhà. Khoảng 17 giờ 30 phút, khi đến cầu Kênh 2/9 thuộc ấp U, xã P, huyện T do mệt và trong người có rượu nên bị cáo ngủ gật, khi xe đến giữa cầu Kênh 2/ 9 thì không làm chủ được tay lái, xe đâm qua phần đường bên trái hướng đi va chạm với xe môtô nhãn hiệu HONDA, loại xe Wave, màu sơn đen - đỏ, biển số 66G1- 305.17, ông Lâm Thanh H điều khiển chở cá theo chiều ngược lại, làm người và phương tiện ngã trên mặt cầu. Hậu quả vụ va chạm làm ông H tử vong tại hiện trường.

Nguyên nhân dẫn đến cái chết của anh Lâm Thanh H là do bị cáo điều khiển xe mô tô, không có giấy phép lái xe theo quy định, lái xe trong người đang có nồng độ cồn vượt quá quy định và không làm chủ được tay lái, lấn sang lề trái đã vi phạm khoản 9 Điều 8, khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ năm 2008, khoản 1, Điều 35 Luật phòng, chống tác hại rượu bia năm 2019.

Tại Điều 8 Luật giao thông đường bộ quy định các hành vi bị nghiêm cấm:

“8. Điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn.

Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở.

9. Điều khiển xe cơ giới không có giấy phép lái xe theo quy định”.

Tại Khoản 1, Điều 9 Luật giao thông đượng bộ năm 2008 quy định:

“1. Người tham gia giao thông phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ”.

Tại Khoản 1, Điều 35 Luật phòng, chống tác hại rượu bia năm 2019 quy định: “Nghiêm cấm điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn”.

Hành vi điều khiển xe không có giấy phép lái xe theo quy định, lái xe trong người đang có nồng độ cồn vượt quá quy định và không làm chủ được tay lái lấn sang lề trái gây tai nạn làm ông H tử vong của bị cáo Đoàn Văn L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 260 BLHS.

Tại Điều 260 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

b)… 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;”.

Tai nạn giao thông ở nước ta hàng năm cướp đi sinh mạng của hàng vạn người và gây ra nhiều thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản của những người tham gia giao thông cũng như thiệt hại cho đất nước. Tai nạn giao thông và hậu quả của nó là vấn đề đáng báo động ở nước ta hiện nay. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông hiện nay là do ý thức chấp hành luật lệ của người tham gia giao thông chưa cao, lái xe cẩu thả, phóng nhanh, vượt ẩu, lái xe khi trong người có chất kích thích vượt mức quy định, lái xe khi chưa được cấp giấy phép lái xe theo quy định … Đảng và Nhà nước ta từ lâu đã thấy được vấn đề nghiêm trọng này nên đã có rất nhiều biện pháp tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành luật lệ giao thông, xử lý nghiêm các lỗi vi phạm của người tham gia giao thông, nhằm kéo giảm tối đa số vụ tai nạn giao thông và hậu quả do tai nạn giao thông gây ra. Bản thân bị cáo có khả năng nhận thức được điều này nhưng bị cáo lại bất chấp các quy định của pháp luật về an toàn giao thông đường bộ, bị cáo điều khiển xe trong khi chưa được cấp giấy phép lái xe theo quy định, lái xe khi trong người có chất kích thích (rượu) vượt quá nồng độ quy định, đi không đúng làn đường nên đã gây ra tai nạn cho ông Lâm Thanh H, hậu quả làm ông H bị chấn thương sọ não dẫn đến tử vong. Hậu quả do bị cáo gây ra cho bị hại và gia đình bị hại là rất lớn, không gì bù đắp nổi. Hành vi của bị cáo thật đáng phê phán, nghĩ nên cần phải xử lý nghiêm và có một mức hình phạt tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ như sau: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện khắc phục một phần hậu quả, bản thân bị cáo là thành phần lao động nghèo, hiện nay hoàn cảnh của bị cáo cũng gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp với điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên vẫn cấn thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, mới có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung.

[5] Hình phạt bổ sung: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, xét thấy bản thân bị cáo hiện nay làm thuê thu nhập thấp nên không áp dụng.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bà Huỳnh Bảo M đại diện cho bị hại và bị cáo thỏa thuận bồi thường cho bị hại tiền mai táng, tổn thất tinh thần, cấp dưỡng nuôi con của bị hại với tổng số tiền 450.000.000 đồng. Bị cáo đã bồi thường cho bên bị hại được 52.000.000 đồng, số tiền còn lại 398.000.000 đồng, nghĩ nên buộc bị cáo tiếp tục bồi thường là có căn cứ chấp nhận.

Đối với số tiền bị cáo nộp khắc phục hậu quả là 20.000.000đ, hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện T, đang quản lý nên bà M (đại diện cho bị hại) được đến Chi cục thi hành án huyện để nhận là có căn cứ chấp nhận.

[7] Về vật chứng của vụ án: Đối với vật chứng thu giữ trong vụ án gồm: Thu giữ của bị cáo 01 (một) xe môtô ba bánh (ba gát), không có biển số kiểm soát, xe bị hư hỏng, không có số khung, số máy không kiểm tra chất lượng bên trong, nghĩ nên tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước là phù hợp và có căn cứ chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 26 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/. Căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Đoàn Văn L phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt bị cáo Đoàn Văn L 3 (ba) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

2/. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, 585 và 591 Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo Đoàn Văn L có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên bị hại gồm: Tiền mai táng phí, tiền tổn thất tinh thần, tiền cấp dưỡng nuôi 02 con của ông H với tổng số tiền là 398.000.000đ (Ba trăm chín mươi tám triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Bà Huỳnh Bảo M được đến Chi cục thi hành án dân sự huyện T để nhận số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) bị cáo Đoàn Văn L nộp khắc phục hậu quả (do Huỳnh Trung C nộp thay) theo phiếu thu tiền ngày 27/8/2021.

3/. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, hóa giá sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) xe môtô ba bánh (ba gát), không có biển số kiểm soát, xe bị hư hỏng, không có số khung, số máy không kiểm tra chất lượng bên trong (Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Đồng Tháp đang quản lý).

4/. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Đoàn Văn L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 19.900.000đ (Mười chín triệu chín trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, tổng cộng 20.100.000đ (Hai mươi triệu một trăm nghìn đồng).

5/. Bị cáo, đại diện bị hại, có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 39/2021/HS-ST ngày 24/09/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:39/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Nông - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;