Bản án 39/2021/HNGĐ-ST ngày 31/08/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHO QUAN – TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 39/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31/8/2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:115/2021/TLST- HNGĐ ngày 01/6/2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2021/QĐXXST-DS ngày 19/7/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 30/2021/QĐST ngày 16/8/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đinh Thị L, sinh năm 1986.

Địa chỉ: Thôn T N, xã VP, huyện NQ, tỉnh N.

2. Bị đơn: Anh Đinh Văn T, sinh năm 1985.

Địa chỉ: Thôn T N, xã VP, huyện NQ, tỉnh N.

(Chị L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt tại phiên tòa không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 01/6/2021 và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện Nho Quan, nguyên đơn chị L trình bày:

1. Về quan hệ hôn nhân: Giữa chị Đinh Thị L và anh Đinh Văn T có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VP, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện vào ngày 22/8/2006. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống tại thôn T N, xã VP, huyện N, tỉnh N. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là quá trình sống chung bất đồng quan điểm sống, thường xuyên đánh chửi nhau, hơn nữa anh T mắc nghiện ma túy. Đến tháng 8/2020 chị L nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã thực sự sâu sắc nên đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị L đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đinh Văn T.

2. Về con chung: Vợ chồng chị có 3 con chung, cháu lớn là Đinh Quốc Đ, sinh ngày 13/02/2007; cháu thứ hai là Đinh Thị Lan H, sinh ngày 21/8/2008; cháu thứ 3 là Đinh Thị C, sinh ngày 06/10/2010. Hiện nay cháu đang ở với chị L. Nếu được ly hôn chị L có nguyện vọng tiếp tục nuôi con chung, không đề nghị anh T cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: Chị L xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Đinh Văn T đã được tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý và các văn bản tố tụng để anh T biết để thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, nhưng anh T không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình để hòa giải vụ án.

Tại biên bản xác minh ngày 06/7/2021 UBND xã VP, huyện N xác nhận thông tin về mối quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản và công nợ chung của vợ chồng đúng như chị L trình bày. UBND xã cũng xác nhận nguyên nhân mâu thuẫn chính là do anh T cai nghiện ma túy nhưng chưa từ bỏ được ma túy dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày một trầm trọng, đề nghị tòa án căn cứ pháp luật giải quyết.

Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình.

Ý kiến phát biểu của kiểm sát viên:

* Về thủ tục tố tụng:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện và chấp hành quyền và nghĩa vụ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành các quy định trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

* Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 5; Điều 147; Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử, xử ly hôn giữa chị Đinh Thị L và anh Đinh Văn T.

- Về con chung: Giao Đinh Quốc Đ, sinh ngày 13/02/2007, cháu thứ hai là Đinh Thị Lan H, sinh ngày 21/8/2008; cháu thứ 3 là Đinh Thị C, sinh ngày 06/10/2010, cho chị L tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con cho chị L.

- Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị L phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Chị L đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo biên lai của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nho Quan nay chuyển sang án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại thôn TN, xã VP, huyện N, tỉnh N, Tòa án nhân dân huyện Nho Quan đã căn cứ vào khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết là đúng quy định. Việc bị đơn vắng mặt tại phiên tòa không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, vì bị đơn đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, phiên tòa đã được hoãn lần thứ nhất do bị đơn vắng mặt, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đinh Thị L và anh Đinh Văn T tự nguyện đăng ký kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân xã VP, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 22/8/2006. Do vậy hôn nhân giữa chị L và anh T được công nhận là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Quá trình chung sống vợ chồng chị L và anh T hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính dẫn tới mâu thuẫn là vợ chồng không hợp nhau về tính cách, hay cãi chửi nhau, hơn nữa bản thân anh T nghiện ma túy, đã từng cai nghiện tập trung nhưng không từ bỏ được ma túy là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, từ tháng 8 năm 2020 đến nay vợ chồng sống ly thân không ai quan tâm tới ai nữa. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh T mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn đã được tòa án tống đạt thông báo hòa giải nhưng anh T không đến tòa án làm việc hòa giải, chứng tỏ anh T không có thiện chí hòa giải để đoàn tụ vợ chồng. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đinh Thị L và anh Đinh Văn T là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân gia đình.

[3]. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Vợ chồng chị L và anh T có 03 con chung. Chị L có nguyện vọng tiếp tục nuôi cả 3 con chung và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con theo quy định. Xét thấy, kể từ khi ly thân đến nay, chị L là người trực tiếp chăm sóc giáo dục con chung. Theo xác minh tại Ủy ban nhân dân xã VP thì anh T và chị L đều không vi phạm nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con. Nhưng anh T là động tự do thu nhập không cao tại địa bàn, bản thân bị nghiện ma túy. Để bảo đảm quyền sinh sống và học tập của các cháu, theo nguyện vọng của ba cháu và theo đề nghị của chi L cần giao cả 3 cháu Đ, C, H cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi; Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con cho chị L.

[4]. Về tài sản chung, công nợ chung: Chị L và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Đinh Thị L phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 5; Điều 147; Điều 227, Điều 228 ; Điều 266; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự. Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

1. Xử: cho chị Đinh Thị L được ly hôn anh Đinh Văn T.

2. Về con chung: Giao cháu Đinh Quốc Đ, sinh ngày 13/02/2007, cháu Đinh Thị Lan H, sinh ngày 21/8/2008 và cháu Đinh Thị C, sinh ngày 06/10/2010 cho chị L tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, kể từ tháng 8/2021 cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con cho chị L.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Đinh Thị L phải nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp theo Biên lai thu số AA/2021/0003339 ngày 01/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nho Quan.

Án xử công khai sơ thẩm, chị Đinh Thị L, anh Đinh Văn T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 39/2021/HNGĐ-ST ngày 31/08/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:39/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;