Bản án 39/2021/HNGĐ-ST ngày 24/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 39/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 24 tháng 9 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 122/2021/TLST-HNGĐ ngày 23-6-2021 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 105/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị H; địa chỉ nơi cư trú: Ấp G, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng. (Có mặt)

- Bị đơn: Anh La T; địa chỉ nơi cư trú: Ấp L, xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng. (Có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 16-6-2021, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Thị H trình bày chị và anh La T tổ chức lễ cưới năm 2012, có đăng ký kết hôn ngày 23-9-2016 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng và cùng chung sống bên gia đình anh T. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc nhưng đến khoảng tháng 02/2021 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau, cuộc sống chung không còn hạnh phúc và đã sống ly thân đến nay; vì vậy, chị khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh La T. Quá trình chung sống giữa chị và anh T có hai con chung tên La Thị Thúy H2 (sinh ngày 10-10-2012) đang sống cùng chị và La Trí P (sinh ngày 08-8-2017) đang sống cùng anh T; khi ly hôn chị yêu cầu giao hai con chung cho chị tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng các cháu đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con. Về tài sản chung và nợ chung giữa chị và anh T không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa, chị H trình bày nếu anh T nguyện vọng muốn trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung thì chị cũng đồng ý.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 06-7-2021, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn anh La T trình bày anh thống nhất với chị H về vấn đề hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung như chị H trình bày. Tuy nhiên, anh còn thương vợ con nên xin đoàn tụ. Còn nếu chị H kiên quyết xin ly hôn thì anh yêu cầu giao hai con chung cho anh trực tiếp nuôi dưỡng và không yêu cầu chị H cấp dưỡng cho con. Về tài sản chung và nợ chung giữa anh và chị H không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện T phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; người tham gia tố tụng là nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành các quy định Bộ luật Tố tụng dân sự và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về ly hôn, ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa đương sự về con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Yêu cầu khởi kiện của chị H là vụ án hôn nhân và gia đình về“ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và chị H có quyền yêu cầu theo quy định tại Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; anh T trú tại Ấp L, xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng nên Tòa án nhân dân huyện T thụ lý, xét xử sơ thẩm theo quy định điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về hôn nhân: Chị H và anh T kết hôn đã được Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 85/2016 ngày 23-9- 2016 là hôn nhân hợp pháp quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Chị H trình bày sau khi kết hôn thì anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, anh T hay uống rượu, vợ chồng thường xuyên cải vã và đã sống ly thân từ 02/2021 đến nay. Qua xác minh địa phương Ấp L, xã T, huyện T không nắm rõ nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa chị H và anh T. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tạo điều kiện để đương sự gặp gỡ hòa giải các mâu thuẫn và đoàn tụ, qua đó anh T cũng thừa nhận có uống rượu, hứa sẽ sửa đổi và xin đoàn tụ, nhưng chị H kiên quyết yêu cầu ly hôn. Điều này thể hiện tình cảm vợ chồng đã không còn, không thể hàn gắn được nữa, hiện hai bên cũng đã sống ly thân và không thực hiện nghĩa vụ vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc không đạt được. Vì vậy, chị H yêu cầu ly hôn là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung và cấp dưỡng cho con: Chị H và anh T thống nhất anh chị có hai con chung tên La Thị Thúy H2 (sinh ngày 10-10-2012) đang sống cùng chị H và La Trí P (sinh ngày 08-8-2017) đang sống cùng anh T. Tại phiên tòa, anh T nguyện vọng muốn được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu chị H cấp dưỡng cho con; chị H cũng đồng ý. Qua Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện T ý kiến anh La T không thuộc đối tượng hộ nghèo, cận nghèo ở địa phương, có khả năng đảm bảo cuộc sống các cháu, việc giao con cho cha hoặc mẹ chăm sóc do cha, mẹ các cháu thỏa thuận, tuy nhiên cháu H2 đã trên 07 tuổi nên cần xem nguyện vọng của cháu; tại Tòa án ngày 07-7-2021, cháu H2 trình bày nguyện vọng muốn được tiếp tục ở cùng mẹ. Nhận thấy, về mặt kinh tế chị H và anh T đều có khả năng đảm bảo cuộc sống của các con chung. Tại phiên tòa, chị H và anh T thỏa thuận thống nhất giao cháu H2 và cháu P cho anh T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các cháu đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu chị H cấp dưỡng cho con là tự nguyện và đảm bảo tốt sự phát triển của hai cháu trong thời điểm hiện tại.

Vì vậy, Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận trên; chị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung theo quy định pháp luật mà không ai được cản trở theo quy định tại Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H và anh T đều trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị H phải chịu theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và hướng dẫn tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 273, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 3, Điều 8, Điều 9, Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị H với anh La T về ly hôn, tranh chấp nuôi con.

- Về hôn nhân: Chị Trần Thị H được ly hôn với anh La T.

- Về con chung: Ghi nhận sự thỏa thuận giữa chị Trần Thị H với anh La T, giao cháu La Thị Thúy H2 (sinh ngày 10-10-2012) và cháu La Trí P (sinh ngày 08-8-2017) cho anh La T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi các cháu đủ tuổi trưởng thành; chị Trần Thị H không phải cấp dưỡng cho các con và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung theo quy định pháp luật mà không ai được cản trở.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị Trần Thị H và anh La T trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

2. Về án phí: Chị Trần Thị H phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0008423 ngày 23-6-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Sóc Trăng.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 39/2021/HNGĐ-ST ngày 24/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:39/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Trị - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;