Bản án 39/2020/HS-ST ngày 12/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHIÊM HÓA, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 39/2020/HS-ST NGÀY 12/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 41/2020/TLST-HS ngày 17/7/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2020/QĐXXST-HS ngày 30/7/2020 đối với bị cáo:

LÝ VĂN L, tên gọi khác: Không, sinh ngày 14/7/1975 tại huyện C, tỉnh T;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, chỗ ở hiện nay: Thôn K, xã KĐ, huyện C, tỉnh T; quốc tịch: Việt Nam; dân Tộc: Dao; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 01/12; nghề nghiệp: Làm ruộng; con ông Bàn Văn M (đã chết) và bà Lý Thị B; chung sống như vợ chồng với bà Đặng Thị B1; có 01 con sinh năm 2002; anh chị em ruột có 06 người bị cáo là thứ 05;

Tiền án: Bản án số 60/2013/HSST, ngày 24/12/2013 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T tuyên phạt 07 năm 09 tháng tù, phạt tiền 5.000.000đ, truy thu 400.000đ, án phí 200.000đ về tội Mua bán trái phép chất ma túy. L đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/8/2019, chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung.

Tiền sự: Không;

Nhân thân: Quyết định số: 70/QĐ-CT ngày 01/12/2009 của Ủy ban nhân dân xã KĐ, huyện C, tỉnh T về việc đưa vào cai nghiện bắt buộc giai đoạn I.

Quyết định số: 443/QĐ-CT ngày 25/02/2010 của Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh T về việc đưa vào cai nghiện bắt buộc giai đoạn II tại Công trường 06. Quyết định số: 631/QĐ-CT ngày 05/4/2011 của Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh T về việc đưa vào cai nghiện bắt buộc giai đoạn III.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/5/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 15/5/2020 tổ công tác Công an huyện C, phối hợp với Công an xã KĐ, huyện C, tỉnh T nghi Lý Văn L có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, nên đã mời về Ủy ban nhân dân xã KĐ để làm việc, tại đây L tự giác lấy trong túi quần bên phải đang mặc ra 02 gói nhỏ đều có đặc điểm bên ngoài gói bằng giấy nhiều màu có chữ bên trong là chất bột vón cục màu trắng giao nộp cho tổ công tác. L khai nhận là Heroine cất giấu nhằm mục đích để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong 02 gói nhỏ L giao nộp để giám định.

Biên bản xét nghiệm tìm chất ma túy hồi: 19 giờ 20 ngày 15/5/2020 tại Công an huyện Chiêm Hóa đối với Lý Văn L, kết quả: (+) Dương tính.

Kết luận giám định số: 409/GĐKTHS ngày 18/5/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine (Hêrôin); khối lượng 0,413g (Không phẩy bốn một ba gam).

Quá trình điều tra L khai nhận: Khoảng 17 giờ, ngày 14/5/2020, L một mình từ nhà đi bộ ra đường sau đó đi nhờ xe môtô của một người không quen biết sang thị trấn C, huyện Đ, tỉnh TN mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Đến nơi, L xuống xe đi bộ được khoảng 100m thì gặp một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ trông giống người nghiện ma túy đứng ở bên đường. L hỏi và mua được với người đàn ông đó 02 gói nhỏ đều có đặc điểm bên ngoài gói bằng giấy nhiều màu, bên trong là chất bột màu trắng là Heroine với giá 500.000đ. Mua được ma túy, L cất giấu vào túi quần đang mặc đi nhờ xe mô tô của người đi đường không quen biết về nhà. Về đến gần nhà, L xuống xe đi vào chỗ vắng người lấy 01 gói Heroine vừa mua được san ra một ít để sử dụng hết bằng cách đốt hít vào cơ thể, số còn lại gói lại như cũ và cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc, sau đó về nhà. Khoảng 15 giờ ngày 15/5/2020, L đang ở nhà thì tổ công tác mời L về Ủy ban nhân dân xã KĐ để làm việc, L đã tự giác giao nộp 02 gói Heroine trên.

Cáo trạng số: 40/CT-VKSCH ngày 16/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo Lý Văn L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh, điều luật đã nêu trong Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Đề nghị tuyên bố bị cáo Lý Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt chính: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Lý Văn L từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 15/5/2020.

Về hình phạt bổ sung phạt tiền: Bị cáo không có tài sản riêng có giá trị, hộ nghèo, sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Lý Văn L, được niêm phong chữ ký xác nhận và có dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang.

Đối với người đàn ông bán Heroine cho Lý Văn L quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xem xét.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lý Văn L Công an huyện Chiêm Hóa đã xử phạt vi phạm hành chính, nên không đề nghị xem xét.

Đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo bản án của bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Lý Văn L đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Xác định đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, không có ý kiến tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát. Nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, phù hợp theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 15 giờ ngày 15/5/2020, tại thôn K, xã KĐ, huyện C, tỉnh T, Lý Văn L đã có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói Heroine, khối lượng 0,413g (không phẩy bốn một ba gam), mục đích để sử dụng, khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ trái phép trong phạm vi khối lượng ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự (từ 0,1 gam đến 05 gam). Đủ cơ sở xác định bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Ma Túy là chất gây nghiện, có tác hại cho sức khỏe con người, là nguyên nhân dẫn đến các hành vi phạm tội, sa sút về kinh tế, gây đổ vỡ hạnh phúc gia đình..., nhưng bị cáo đã đi ngược lại quy định Nhà nước, thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vi phạm pháp luật, gây mất ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

[3] Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, do đó phải chịu trách nhiệm đối với hành vi phạm tội của mình. Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo có nhân thân xấu, có tiền án về tội Mua bán trái phép chất ma túy, không coi đó là bài học mà tiếp tục vi phạm. Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là "tái phạm" theo đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là: "Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải", "Sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn ". Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm chung; nội dung buộc tội, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa cho thấy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, do đó cần phải áp dụng mức án tương xứng với mức độ thực hiện hành vi phạm tội, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời làm gương phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về vật chứng vụ án: Số ma túy thu giữ của bị cáo Lý Văn L xét thấy đây là vật Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Lý Văn L, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ, cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lý Văn L, Công an huyện Chiêm Hóa đã ra Quyết định xử phạt hành chính nên không xem xét xử lý.

[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xét thấy bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy không vì mục đích vụ lợi, không có tài sản riêng có giá trị, hộ nghèo, dân tộc thiểu số, sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo. Không thực hiện tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc cấm hành nghề làm công việc nhất định đối với bị cáo.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 135, 136, 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Lý Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Lý Văn L 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 15/5/2020.

Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Lý Văn L. Vật chứng là 01 (một) bì niêm phong còn nguyên vẹn, mặt sau các mép dán có chữ ký xác nhận của Lý Văn L, thành phần tham gia và 05 (năm) hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Mặt trước ghi tang vật vụ Lý Văn L giám định ngày 16/5/2020. Tình trạng vật chứng như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 17 tháng 7 năm 2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa.

Lý Văn L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 12/8/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 39/2020/HS-ST ngày 12/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:39/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;