Bản án 39/2020/DS-ST ngày 26/08/2020 về kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK 

BẢN ÁN 39/2020/DS-ST NGÀY 26/08/2020 VỀ KIỆN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 26/8/2020 tại phòng xử án - Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo mở phiên tòa xét xử công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 273/2020/TLST-DS, ngày 06/7/2020, về việc “Kiện tranh chấp HĐ vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2020/QĐST-DS ngày 07/8/2020 giữa:

Nguyên đơn: Ông Lê Minh H, sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1963.

Có mặt.

Địa chỉ: Thôn 3, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk. Bị đơn: Ông Lê Văn D, sinh năm 1979. Có mặt. Địa chỉ: Thôn 2c, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ông H, bà S là nguyên đơn trình bày:

Do quen biết từ trước, nên ngày 08/4/2019 ông Lê Văn H và bà Nguyễn Thị S có cho ông Lê Văn D vay số tiền 32.000.000 đồng, ông D ký giấy xác nhận nợ và hẹn trả nợ vào ngày 08/4/2020. Về lãi suất thì hai bên không thỏa thuận.

Tuy nhiên, đến nay đã quá thời hạn trả nợ nhưng ông D không chịu trả nợ cho ông H, bà S.

Do đó, ông H, bà S yêu cầu Tòa án buộc ông Lê Văn D trả cho ông H, bà S số tiền nợ là 32.000.000 đồng. Ngoài ra, không có yêu cầu gì khác.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ông D là bị đơn trình bày:

Ông Lê Văn D thừa nhận là vào ngày 08/4/2019 vay của ông H, bà S số tiền 32.000.000 đồng, ông D có ký giấy xác nhận nợ và hẹn trả nợ vào ngày 08/4/2020.

Đến nay, do điều kiện, hoàn cảnh khó khăn nên ông D vẫn chưa trả nợ cho ông H, bà S khoản tiền nào. Vì hoàn cảnh gia đình khó khăn nên ông D xin trả dần số nợ trên cho ông H, bà S mỗi năm là 5.000.000 đồng cho đến khi trả hết nợ.

Ngoài ra không có yêu cầu nào khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được kiểm tra xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Do ông Lê Văn D nợ ông Lê Văn H, bà Nguyễn Thị S số tiền 32.000.000 đồng đến hẹn ông D không trả nợ, nên ông H, bà S đã khởi kiện tại Tòa án và Toà án thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung: Trong quá trình giải quyết vụ án ông D thừa nhận là có ký giấy xác nhận nợ ông H, bà S số tiền là 32.000.000 đồng, hẹn trả nợ vào ngày 08/4/2020, nhưng do điều kiện, kinh tế gặp khó khăn nên ông D chưa có tiền trả nợ cho ông H, bà S. Ông D xin trả nợ dần mỗi năm 5.000.000 đồng cho đến khi trả hết nợ nhưng ông H, bà S không đồng ý.

Như vậy, căn cứ vào giấy vay tiền do ông H, bà S cung cấp và trong quá trình giải quyết vụ án ông D cũng đã thừa nhận có nợ ông H, bà S số tiền 32.000.000 đồng, nên có đủ căn cứ để xác định ông D có nợ ông H, bà S số tiền 32.000.000 đồng cho đến nay vẫn chưa trả nợ cho ông H, bà S. Việc thiết lập hợp đồng vay tài sản giữa ông H, bà S và ông D là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội, nên đây là giao dịch hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Việc ông D không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ông H, bà S làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông H, bà S, nên ông H, bà S khởi kiện yêu cầu ông D phải trả số tiền 32.000.000 đồng là có căn cứ, cần chấp nhận.

Về lãi suất: Do ông H, bà S không yêu cầu tính lãi suất nên không đề cập giải quyết.

[3]. Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của ông H, bà S được chấp nhận, nên cần buộc ông D phải chịu toàn bộ tiền án phí DSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 463; Điều 466 Bộ luật dân sự;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn H và bà Nguyễn Thị S.

Buộc ông Lê Văn D trả cho ông Lê Văn H và bà Nguyễn Thị S 32.000.000 đồng (ba mươi hai triệu đồng).

Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Về án phí: Căn cứ khoản 3 Điều 144; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ khoản 6 Điều 19; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Ông Lê Văn D phải chịu 1.600.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trả lại cho lại cho ông Lê Văn H và bà Nguyễn Thị S 800.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo, theo biên lai số AA/2019/0009009 ngày 03/7/2020.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 39/2020/DS-ST ngày 26/08/2020 về kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:39/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;