Bản án 39/2020/DS-ST ngày 24/12/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 39/2020/DS-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN

Ngày 24 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 121/2020/TLST-DS ngày 26 tháng 6 năm 2020 về việc “ Tranh chấp hợp đồng mua bán” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2020/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 198/2020/QĐST-DS ngày 26 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Huỳnh A – sinh năm 1968 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp C, xã S, huyện X, tỉnh Đồng Nai Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lê Bá Đ – sinh năm 1988; Địa chỉ: Tỉnh lộ 766, ấp T, xã X, huyê n X, tỉnh Đồng Nai (văn bản ủy quyền ngày 26/3/2020). (có mặt) - Bị đơn:

+ Ông Bùi Thanh P – sinh năm 1970 (vắng mặt) + Bà Nguyễn Thị T - sinh năm 1973 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: ấp C, xã S, huyện X, tỉnh Đồng Nai - Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Thu H – sinh năm 1967 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp C, xã S, huyện X, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và đại diên nguyên đơn trình bày:

Vào khoảng cuối năm 2016, vợ chồng ông Bùi Thanh P và bà Nguyễn Thị T có gặp và đề nghị mua cám thiếu của ông Huỳnh A để nuôi heo cho đến khi xuất bán heo xong sẽ trả. Ông Huỳnh A đồng ý bán thiếu cám cho Bùi Thanh P và bà Nguyễn Thị T cho đến khi xuất bán heo thì thanh toán. Tính từ cuối năm 2016 cho đến ngày 16/12/2017, thì tổng số tiền vợ chồng ông P, bà T mua cám còn nợ ông Huỳnh A là 169.619.000 đồng. Nay, ông Huỳnh A yêu cầu vợ chồng ông Bùi Thanh P và bà Nguyễn Thị T phải trả cho ông Huỳnh A số tiền còn nợ là 169.619.000 đồng.

Bị đơn là bà Nguyễn Thị T trình bày:

Bà T có mua cám của ông Huỳnh A để chăn nuôi heo, có tiền thì bà T thanh toán đủ, chưa có tiền thì mua nợ, cộng dồn đến ngày xuất bán heo thì thanh toán gối đầu nhau hết đợt heo này đến đợt heo khác. Vào khoảng năm 2018, heo bị dịch bệnh nên bà T phải dẹp đàn, thua lỗ, không có khả năng thanh toán nợ cho ông A. Bà T xác định còn nợ ông Huỳnh A số tiền 169.619.000 đồng và đồng ý trả nợ cho ông A, nhưng xin được trả dần.

- Bị đơn là ông Bùi Thanh P trình bày. Vào năm 2005, việc làm vườn rẫy thu nhập thấp, nên ông P phải đi làm ăn xa, thời gian này ở nhà vợ ông là bà Nguyễn Thị T có chăn nuôi heo. Về việc mua bán cám giữa bà T và ông A Thì ông P chỉ biết là mua bán trả gối đầu. Đến năm 2016 – 2017, dịch lở mồm long móng, đàn heo nhà ông bị dịch bệnh chết hết, nên việc chăn nuôi tạm ngưng từ đó đến nay. Ông A không nói gì với ông P về việc nợ tiền cám hay nhắc ông P trả nợ, nên ông P không biết gì cả.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thu H trình bày: Bà thống nhất với lời trình bày và yêu cầu của chồng bà là ông Huỳnh A trong vụ án. Bà yêu vợ chồng ông Bùi Thanh P và bà Nguyễn Thị T phải trả cho vợ chồng bà số tiền còn nợ là 169.619.000 đồng.

Ý kiến của kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Riêng bị đơn chưa chấp hành đầy đủ triệu tập của Tòa án là không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh A. Buộc vợ chồng ông Bùi Thanh P và bà Nguyễn Thị T phải trả cho ông Huỳnh A số tiền còn nợ là 169.619.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn là bà Nguyễn Thị T và ông Bùi Thanh P vắng mặt, nhưng ông bà đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai, nên phiên tòa vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bà Nguyễn Thị T thống nhất lời trình bày của ông Huỳnh A, bà xác nhận có mua cám và còn nợ ông Huỳnh A số tiền 169.619.000 đồng chưa thanh toán được do heo bị dịch bệnh, thua lỗ phải dẹp đàn. Ông Bùi Thanh P là chồng của bà T trình bày rằng có biết vợ của ông là bà T mua bán cám trả gối đầu, nhưng không biết việc còn nợ tiền ông Huỳnh A. Hội đồng xét xử xét thấy việc bà T chăn nuôi heo là làm kinh tế phục vụ nhu cầu gia đình, nay bà T xác nhận còn nợ ông Huỳnh A số tiền 169.619.000 đồng, nên buộc ông Bùi Thanh P và bà Nguyễn Thị T phải có nghĩa vụ thanh toán số nợ trên cho vợ chồng ông Huỳnh A và bà Nguyễn Thị Thu H với số tiền là 169.619.000 đồng.

[3] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, nên bị đơn là ông Bùi Thanh P và bà Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với số tiền phải thanh toán cho ông An là 8.480.000 đồng (169.619.000 đồng x 5%).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các Điều 430, 440, 357, 468 của Bộ luật dân sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Buộc ông Bùi Thanh P và bà Nguyễn Thị T phải có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho ông Huỳnh A và bà Nguyễn Thị Thu H số tiền 169.619.000 đồng (một trăm sáu mươi chín triệu sáu trăm mười chín ngàn đồng).

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án trả tiền thì người có nghĩa vụ thi hành án trả tiền phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Về án phí: Ông Bùi Thanh P và bà Nguyễn Thị T phải nộp số tiền 8.480.000 đồng (tám triệu bốn trăm tám mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho ông Huỳnh A số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 4.240.754 đồng (bốn triệu hai trăm bốn mươi ngàn bốn trăm bảy mươi lăm đồng) theo Biên lai thu số 0009385 ngày 24/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành an dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ tuyên án. Bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

344
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 39/2020/DS-ST ngày 24/12/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán

Số hiệu:39/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;