Bản án 39/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 39/2019/HS-ST NGÀY 24/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 4 năm 2019, tại Hội trường xóm C, xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2019/TLST-HS, ngày 15 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2019/HSST-QĐ ngày 08 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo: Họ và tên Nguyễn Văn T, sinh năm: 1980. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm C, xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn P và bà: Tạ Thị N; Vợ: chưa có; Gia đình có 04 chị em bị cáo là con thứ 03; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/12/2018 đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1971; Nơi cư trú: Xóm C, xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt)

- Người chứng kiến:

1. Anh Tạ Đình T, sinh năm 1989; Nơi cư trú: Xóm B, xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt)

2. Anh Nguyễn Tiến L, sinh năm 1981; Nơi cư trú: Xóm M, xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 40 phút ngày 12/12/2018, Tổ Công tác Công an huyện P tiến hành tuần tra tuyến đường bê tông liên xã từ xã K đi xã H thuộc xóm C, xã K, huyện P thì phát hiện Nguyễn Văn T, sinh năm 1980, trú tại xóm C, xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên đang có biểu hiện nghi vấn về tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình kiểm tra T đã tự giác lấy từ túi áo khoác bên ngoài bên trái của T giao nộp cho lực lượng Công an 01 (một) gói được gói ngoài bằng giấy vở ô li màu trắng, T khai nhận đó là ma túy Heroine của T. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T và niêm phong vật chứng theo quy định trong bì thư ký hiệu P và đưa T về trụ sở Công an để tiếp tục điều tra làm rõ.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói giấy vở ô li màu trắng bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng và 01 (một) xe đạp màu bạc đã qua sử dụng.

Tại Phòng PC09 Công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong, cân xác định trọng lượng và lấy mẫu giám định vật chứng nêu trên xác định: 01 (một) gói chất bột dạng cục màu trắng, được gói ngoài bằng giấy vở ô li màu trắng, trong bì thư niêm phong ký hiệu P thu giữ trong quá trình bắt quả tang đối với Nguyễn Văn T có tổng khối lượng là 0,194 gam. Cơ quan điều tra lấy toàn bộ 0,194 làm mẫu giám định niêm phong vào bì thư ký hiệu P1.

Ngày 12/12/2018, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P đã trưng cầu giám định đối với vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn T. Tại bản kết luận giám định số 136/KL-PC09 ngày 19/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn T là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,194 gam (không phẩy một trăm chín mươi tư gam). Hồi 13 giờ ngày 13/12/2018, Cơ quan điều tra tiến hành Lệnh khám xét khẩn cấp đối với nhà ở, đồ vật và khu vực xung quanh nhà ở của Nguyễn Văn T tại xóm C, xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. Kết quả không thu giữ đồ vật tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình cụ thể: Vào khoảng 10 giờ 20 phút, sáng ngày 12/12/2018, T đi một mình từ nhà ra khu vực đường bê tông thuộc xóm C, xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên thì gặp một người đàn ông tên H, T không biết rõ địa chỉ ở đâu. Tại đây, T mua được của người đàn ông trên một gói ma túy với giá 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng). T cất gói ma túy vừa mua được vào túi áo ngực bên ngoài bên trái. T đứng ở đó một lúc rồi đi về thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Cáo trạng số 42/CT-VKSPB ngày 15 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P sau khi phân tích, đánh giá chứng cứ, nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận: giữ nguyên cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị với Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 24 đến 30 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ký hiệu P1 bên trong có chứa 0,181 gam (Không phẩy một trăm tám mươi mốt gam) ma túy Heroin hoàn lại sau giám định. Đối với xe đạp thu giữ của bị cáo T không liên quan đến vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho bà Nguyễn Thị B quản lý, sử dụng. Bà B không có yêu cầu gì nên không đề nghị xem xét.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định của pháp luật.

Kết thúc phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an huyện P, tỉnh Thái Nguyên; của Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai đó có căn cứ chấp nhận vì đúng như cáo trạng truy tố, phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, sơ đồ hiện trường, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người tham gia tố tụng khác cùng các tài liệu chứng cứ khác. Như vậy có đủ cơ sở khẳng định:

Khoảng 10 giờ 40 phút ngày 12/12/2018, tại khu vực đường bê tông thuộc xóm C, xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên, bị cáo Nguyễn Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 01gói chất bột dạng cục màu trắng qua giám định là chất Heroine có trọng lượng (khối lượng) là 0,194 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt quả tang thu giữ cùng vật chứng.

Hành vi của bị cáo T có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Nội dung Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05 gam.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự xã hội ở địa phương là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm hình sự khác. Cần phải xử lý nghiêm minh bằng pháp luật hình sự và cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân tốt.

Xét tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Mẹ đẻ được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xét tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xét nhân thân, tính chất mức độ tội phạm và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc một mức án tương ứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Đối với 01 phong bì niêm phong ký hiệu P1 bên trong có chứa 0,181 gam (Không phẩy một trăm tám mươi mốt gam) ma túy Heroin hoàn lại sau giám định không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy;

- Đối với xe đạp thu giữ của bị cáo T không liên quan đến vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho bà Nguyễn Thị B quản lý, sử dụng. Bà B không có yêu cầu gì nên không xem xét.

[6] Xét đề nghị của Đại diện viện kiểm sát trong lời luận tội về tội danh, mức hình phạt chính, phạt bổ sung, xử lý vật chứng vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật cần chấp nhận.

[7] Về tạm giam bị cáo sau khi tuyên án: Căn cứ vào Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định tạm giam bị cáo T với thời hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, cần buộc bị cáo phải chịu một khoản án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ, áp dụng pháp luật:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 và Điều 47 của Bộ luật hình sự;

- Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 326; Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt chính: Xử phạt Nguyễn Văn T 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12 tháng 12 năm 2018.

3. Về tạm giam bị cáo sau khi tuyên án: Ra quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Văn T với thời hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

4. Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ký hiệu P1 bên trong có chứa 0,181 gam (Không phẩy một trăm tám mươi mốt gam) ma túy Heroin hoàn lại sau giám định.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/4/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra của Công an huyện P và Chi cục Thi hành án dân sự huyện P).

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩmsung quỹ Nhà nước.

6. Thông báo về quyền kháng cáo: Có mặt bị cáo T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (bà B) có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 39/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:39/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Lương - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;