NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 39/2019/HS-ST NGÀY 23/08/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Trong ngày 23 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở TAND huyện H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự đã thụ lý số 36/2019/TLST-HS ngày 22/7/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2019/QĐXXST-HS ngày 08/8/2019 đối với bị cáo;
NGUYỄN VĂN B, sinh năm 1953, tên gọi khác: Không
Nơi cư trú: Thôn 1, xã T, huyện H, tỉnh B; Nghề nghiệp: Không;
Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Tin Lành; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông: Nguyễn T (chết) và bà Lê Thị T (chết);
Gia đình có 06 anh chị em, bị cáo là con đầu Vợ: Trần Thị L (chết); con: 01 con sinh năm 1994
Tiền án, tiền sự: Không;
Người bị hại: Trần Thị L - chết
Người đại diện hợp pháp cho bị hại là anh Nguyễn Trần Đăng T, sinh năm 1994.
Địa chỉ: 12 đường 5, T, quận 9, thành phố H
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Nguyễn Văn B, sinh năm 1979
Địa chỉ: tổ 14, ấp 3, L, N, Đ
2. Võ Lê Thanh Đ, sinh năm: 1982
Địa chỉ: ấp 1, S, L, Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 03/3/2019, Nguyễn Văn B không có giấy phép lái xe theo quy định điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 86N1-6834 chở vợ là Trần Thị L lưu thông trên Quốc lộ 1A theo hướng Phan Thiết đi Đồng Nai. Khi đến Km 1759 + 200 thuộc địa phận Thôn 1, xã Tân Phúc, huyện Hàm Tân là đoạn đường không có hệ thống đèn đường, ông Ba đột ngột điều khiển xe chuyển hướng băng xéo từ làn đường xe thô sơ và người đi bộ qua bên trái đường theo hướng đang lưu thông, không quan sát các phương tiện đang lưu thông cùng chiều. Cùng lúc này, xe ô tô biển kiểm soát 60A-420.88 do Võ Lê Thanh Đ điều khiển lưu thông hướng Phan Thiết đi Đồng Nai cũng vừa đến. Do khoảng cách gần và mô tô do ông Ba điều khiển chuyển hướng đột ngột ngay trước đầu xe ô tô nên Đ chỉ kịp tránh về phía bên trái nhưng không kịp, góc cản trước bên phải xe ô tô đã va chạm vào bên trái xe mô tô ngay giữa làn đường dành cho xe cơ giới bên phải theo hướng Phan Thiết đi Đồng Nai và đẩy xe mô tô cùng với ông B, bà L trượt dài về phía trước và dừng lại trên làn đường dành cho xe thô sơ và người đi bộ phía bên trái đường theo chiều đi. Sau khi tai nạn xãy ra, ông B và bà Lđược đưa đi cấp cứu tại phòng khám đa khoa khu vực Tân Minh, nhưng do bị thương quá nặng bà L đã chết còn ông B bị gãy chân trái.
Tại bản kết luận giám định số 115/2019/KN-TT ngày 12/3/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Thuận kết luận:
- Chấn thương vùng đỉnh chẩm, nứt, lún nhẹ xương sọ chẩm - Gãy kín 1/3 dưới 02 xương cẳng chân trái.
- Đa vết thương bàn chân trái Nguyên nhân chết: Choáng không hồi phục sau đa chấn thương => tử vong Vật chứng vụ án gồm 01 xe mô tô biển kiểm soáy 86N1-6834 đã trả lại cho chủ sở hữu là ông B và 01 xe ô tô biển kiểm soát 60A-420.88 đã được trả lại cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Văn Bắc.
Phần dân sự: Sau tai nạn ông B đã lo toàn bộ chi phí mai táng cho bà Ln. Ông Đ tự nguyện hỗ trợ cho gia đình bà L 80.000.000 đồng. Đối với thiệt hại của xe ô tô thì ông Đ và ông B không yêu cầu định giá thiệt hại và không yêu cầu ông B phải bồi thường.
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận tòan bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của VKS đã truy tố và thống nhất với các điều khoản mà VKS viện dẫn trong cáo trạng.
Tại bản cáo trạng số 35/CT-VKS ngày 11/7/2019 của VKSND huyện Hàm Tân đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn B về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo khoản 2 điều 260 BLHS;
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh B vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn B; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 260, 65 BLHS, điểm b,s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B 36 tháng tù cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách theo quy định.
Tại phiên tòa, bị cáo trình bày lời nói sau cùng, qua đó, bị cáo đã nhận tội như cáo trạng truy tố và xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử.
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, không có người nào có ý kiến, hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Nguyễn Văn B là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bản thân không có giấy phép lái xe theo quy định nhưng khoảng 19 giờ 30 phút ngày 03/3/2019, Nguyễn Văn B vẫn điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 86N1-6834 chở bà Trần Thị L phía sau lưu thông trên Quốc lộ 1A. Khi đến Km 1759 + 200 thuộc địa phận Thôn 1, xã Tân Phúc, huyện Hàm Tân. Do thiếu quan sát và đột ngột chuyển hướng xe băng xéo qua đường nên bị xe ô tô biển kiểm soát 60A-420.88 từ phía sau chạy đến tung vào, hậu quả làm bà Trần Thị L chết.
Hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2 điều 260 BLHS.
[3] Nguyên nhân gây tai nạn là do lỗi chủ quan của bị cáo đã không tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định của nhà nước về an toàn khi tham gia giao thông đó là thiếu chú ý quan sát và không đảm bảo an toàn khi chuyển hướng xe, phạm vào khoản 2 điều 15 Luật Giao thông đường bộ.
Khoản 2 Điều 15 luật giao thông đường bộ quy định:
“Trong khi chuyển hướng, người lái xe, người điều khiển xe máy chuyên dùng phải nhường quyền đi trước cho người đi bộ, người đi xe đạp đang đi trên phần đường dành riêng cho họ, nhường đường cho các xe đi ngược chiều và chỉ cho xe chuyển hướng khi quan sát thấy không gây trở ngại hoặc gây nguy hiểm cho người và phương tiện khác”
[4] Căn cứ buộc tội của VKS là phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra. Ngoài ra, căn cứ buộc tội cũng phù hợp với hậu qủa vụ án, phù hợp về thời gian, địa điểm xảy ra tai nạn do đó HĐXX cần chấp nhận căn cứ buộc tội mà VKS đưa ra đối với bị cáo là có căn cứ.
[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến trật tự công cộng và an toàn xã hội. Ngoài ra hành vi của bị cáo còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn giao thông tại địa phương. Do đó, HĐXX cần xử lý nghiêm để góp phần răn đe giáo dục và phòng ngừa chung. [6] Khi quyết định hình phạt, HĐXX cũng xem xét đến tính chất mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo để lượng hình cho phù hợp. Xét thấy sau khi phạm tội và tại tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Sau tai nạn, bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả. Tại phiên tòa đại diện bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bản thân bị cáo cũng bị thương tích là gãy chân sau vụ tai nạn và bị hại là người thân thích của bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS vì vậy HĐXX cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên HĐXX cần áp dụng điều 65 BLHS để cho bị cáo được hưởng án treo là phù hợp.
[7]Vật chứng vụ án đã được giải quyết nên HĐXX không xét
[8]Về án phí: Bị cáo sinh năm 1953 nên là người cao tuổi theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 thì bị cáo thuộc trường hợp được miễn án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
*Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia thông đường bộ”
*Áp dụng: Khoản 2 điều 260, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, 65 BLHS năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Phạt: Nguyễn Văn B 03 (ba) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo cho UBND xã T, huyện H, tỉnh B giám sát trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trường hợp người bị phạt tù được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật Thi hành án Hình sự.
Áp dụng: điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, miễn án phí HSST cho bị cáo.
Án xử công khai, báo cho bị cáo, đại diện bị hại biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 39/2019/HS-ST ngày 23/08/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 39/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Nam - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/08/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về