Bản án 39/2019/HSST ngày 23/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 39/2019/HSST NGÀY 23/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 23 tháng 8 năm 2019, tại Nhà văn hóa xã Y, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 36/2019/TL ST-HS ngày 01 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Phan Văn A, sinh ngày 13 tháng 01 năm 1979; sinh trú quán: Thôn P, xã Y, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; cha không xác định, con bà Phan Thị Đ; có vợ là Nguyễn Thị N và có 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/5/2019 đến ngày 22/5/2019 thì được thay đổi biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện nay bị cáo đang tại ngoại, (có mặt);

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1983; trú tại: Thôn P, xã Y, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc, (có mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Văn A là đối tượng nghiện ma túy từ năm 2000, khoảng 08 giờ 00 phút ngày 13/5/2019, A điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 88F1 – 05773 của vợ là chị Nguyễn Thị N đến Trung tâm phòng chống HIV/AIDS ở xã Đ, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc để uống Methadone. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên A đến khu vực chợ V thuộc địa phận phường N, thành phố V để tìm gặp và mua của một người phụ nữ không rõ tên tuổi, địa chỉ 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, A điện thoại rủ Phan Thị P là bạn xã hội ở phường Đồng Tâm, thành phố V đến cùng sử dụng ma túy. P đồng ý và hẹn A đến khu vực đèn tín hiệu giao thông thuộc thôn C, xã Đ, huyện Y. Tại đây, P hỏi A có ma túy chưa thì A lấy gói ma túy vừa mua được đưa cho P xem. Thấy ít nên P lấy 370.000 đồng của mình ra đưa cho A và bảo A đi mua thêm ma túy về để cùng sử dụng, trong lúc P và A đang chuẩn bị sử dụng ma túy và P chưa kịp đưa tiền cho A thì bị tổ công tác của Công an huyện Yên Lạc phát hiện. Do hoảng sợ, A đã ném gói ma túy xuống nền đường để phi tang. Công an huyện Yên Lạc đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng bao gồm:

Thu tại vị trí A đang đứng 01 gói nhỏ bọc nilon, bên trong bọc giấy chứa chất bột dạng cục màu trắng. A khai nhận là gói ma túy vừa mua được ở V về sử dụng, niêm phong trong bao gói ký hiệu A1; 01 xe mô tô biển kiểm soát 88F1 – 05773 và 01 chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Nokia 5233 đã cũ. Ngoài ra Công an huyện Yên Lạc còn tạm giữ của Phan Thị P số tiền 370.000 đồng để điều tra.

Ti kết luận giám định số: 837/KLGĐ ngày 17/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột, cục màu trắng trong mẫu ký hiệu A1 gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1489g (Không phảy một bốn tám chín gam, không kể bao bì) là loại Heroine là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT09, Nghị định số: 73/2018/NĐ - CP ngày 15/05/2018 của Chính phủ.

Ti Cơ quan điều tra, bị cáo Phan Văn A đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như các lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và lời khai của người làm chứng.

Ti phiên tòa hôm nay, bị cáo Phan Văn A cũng đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như các lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng đã khai tại Cơ quan điều tra.

Bản cáo trạng số: 38/CT-VKS ngày 31/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Phan Văn A về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc giữ quyền công tố luận tội và tranh luận đã phân tích lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng và phù hợp với các vật chứng đã thu giữ được. Từ đó có đủ cở sở để xác định bị cáo Phan Văn A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Phan Văn A và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phan Văn A từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án. Bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ theo quy định.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo A.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề xuất quan điểm về xử lý vật chứng liên quan đến vụ án và án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Phan Văn A không có ý kiến gì tham gia tranh luận và nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Lạc, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án này đều hợp pháp và đúng theo quy định của pháp luật.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo Phan Văn A đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố mà không có lời tự bào chữa nào khác. Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng; phù hợp với các vật chứng đã thu được tại hiện trường và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ cơ sở để kết luận:

Khong 09 giờ 30 phút ngày 13/5/2019, tại khu vực thôn C, xã Đ, huyện Y Phan Văn A đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói nhỏ ma túy “Heroine” có khối lượng là 0,1489g (Không phảy một bốn tám chín gam) thì bị tổ công tác của Công an huyện Yên Lạc phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Với hành vi trên của Phan Văn A đã có đủ cơ sở để khẳng định, bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy đinh tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Điều luật quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine…..có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam”.

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý; xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn xã hội, gây nên sự bất bình trong quần chúng nhân dân. Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý đang là tệ nạn xã hội có chiều hướng ngày càng gia tăng, gây nên sự đau khổ bất hạnh cho nhiều gia đình; ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội. Tội phạm về ma tuý là nguy cơ dẫn đến các tội phạm khác như trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cướp tài sản…ngoài ra nó còn là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến căn bệnh thế kỷ: HIV - AIDS.

Khi đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Mặc dù, bị cáo không có tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự nhưng hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật cho nên cần thiết phải xử phạt bị cáo thật nghiêm minh như vậy mới đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

Trước khi phạm tội, bị cáo là người có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu. Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, biết tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Đi với hành vi bán ma túy cho A của người phụ nữ ở khu vực chợ V, phường N, thành phố V thì thấy quá trình điều tra, do A không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể của người phụ nữ trên nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra xử lý.

Đi với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 88F1-057.73: Quá trình điều tra đã làm rõ, chiếc xe trên là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị N là vợ A. Khi A lấy xe đi, chị Nhàn không biết A đã sử dụng chiếc xe của mình làm phương tiện để đi mua ma túy. Ngày 03/6/2019, Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Lạc đã trả lại cho chị Nguyễn Thị N chiếc xe mô tô trên. Sau khi nhận lại tài sản, chị Nhàn không có ý kiến đề nghị gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về xử lý vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ của Phan Văn A 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã cũ, quá trình điều tra đã làm rõ, chiếc điện thoại di động trên là tài sản hợp pháp của A dùng để liên lạc rủ P đến sử dụng trái phép chất ma túy nên cần tịch thu bán phát mại sung công quỹ Nhà nước. Tịch thu tiêu hủy 01 bao gói mẫu vật ký hiệu A1 = 0,0556g còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành được niêm phong trong bao gói “Mẫu trả”. Tịch thu để sung công quỹ Nhà nước số tiền 370.000 đồng thu của P dùng vào mục đích mua bán ma túy.

Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản cho nên bị cáo Phan Văn A có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa Hội đồng xét xử thấy rằng, bản thân bị cáo A là đối tượng bị nghiện ma túy nhiều năm lại không có nghề nghiệp gì nên thu nhập thường xuyên không ổn định, điều kiện kinh tế gia đình bị cáo quá khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Phan Văn A phải chịu toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phan Văn A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt Phan Văn A 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị báo bị bắt đi thi hành án. Bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 13/5/2019 đến ngày 22/5/2019.

Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 1, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu, bán phát mại để sung công quỹ Nhà nước của Phan Văn A 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã cũ; tịch thu để sung công quỹ Nhà nước số tiền 370.000 đồng của P và tịch thu tiêu hủy 0,0556g gam ma túy cùng toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định tại mẫu ký hiệu A1 được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “MẪU TRẢ” là vật Nhà nước cấm lưu hành.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Chi cục thi hành án huyện Yên Lạc và Công an huyện Yên Lạc ngày 07 tháng 8 năm 2019).

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Phan Văn A phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 39/2019/HSST ngày 23/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:39/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;