Bản án 39/2019/HS-ST ngày 22/07/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 39/2019/HS-ST NGÀY 22/07/2019 VỀ TI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 19 và 22 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm C khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 35/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Trịnh Ngọc Hoài Ph, sinh năm 1995 tại BD; Nơi cư trú: Khu phố 1, thị trấn P, huyện G, tỉnh B; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Văn Ph, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Kim P, sinh năm 1963. Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/9/2018 đến nay, bị cáo có mặt.

- Bị hại: Ông Phạm Đình L, sinh năm 1992; Nơi cư trú: Thôn B, xã N, huyện B, tỉnh BP. vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Kim Ph, sinh năm 1963; Nơi cư trú: Khu phố 1, thị trấn P, huyện G, tỉnh B. Có mặt.

Ông Phạm Đình Tr, sinh năm 1957; Nơi cư trú: Khu phố 1, thị trấn P, huyện G, tỉnh B. Vắng mặt.

Bà Nguyễn Thị Ngọc M, sinh năm 1992; Nơi cư trú: Khu phố 1, thị trấn P, huyện G, tỉnh B. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

Ông Trần Văn Kh, vắng mặt.

Ông Đinh Văn C, vắng mặt.

Ông Lâm Th, vắng mặt.

Ông Trần Hữu Th, có mặt.

Ông Trương Hoài S, có mặt.

Bà Nguyễn Thị Ngọc M, vắng mặt.

Ông Phan Linh Ph, có mặt.

Bà Lâm Thị Tr, vắng mặt.

Ông Đàm Xuân H, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Các anh Phạm Đình L, Trần Văn Kh, Đinh Văn C và Đoàn Lý Hải là những người làm thuê, tạm trú tại cây xăng Lộc Xuân thuộc khu phố 6, thị trấn Phước Vĩnh, huyện Phú Giáo do ông Đàm Xuân H làm chủ.

Khoảng 21 giờ ngày 25/8/2018, sau khi uống rượu cùng Lâm Th, Trần Hữu Th, Lâm Thị Tr, Phan Linh Ph tại quán Karaoke Duy Mạnh thuộc khu phố 9, thị trấn Phước Vĩnh, huyện Phú iáo, bị cáo Trịnh Ngọc Hoài Ph điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) ra về trước còn những người còn lại vẫn ngồi tại quán. Khi đi đến trước nhà nghỉ Sài Gòn thuộc khu phố 9, thị trấn Phước Vĩnh thấy Trần Văn Kh, Đinh Văn C đang đi bộ trên đường, trên tay C có cầm một khúc mía nên Ph dừng xe chặn phía trước Kh, C. Thấy vậy, Kh hỏi Ph có chuyện gì không nhưng Ph không trả lời mà gây sự với Kh, C và nói “Mày thích sao?”. Lúc này, Phạm Đình L điều khiển xe mô tô biển số 93L1-351.95 đến nói Kh, C lên xe rồi chở cả hai về cây xăng Lộc Xuân thuộc khu phố 6, thị trấn Phước Vĩnh để ngủ. Thấy Lu chở Kh, C đi, Ph điều khiển xe mô tô đuổi theo phía sau xe của Lu, vừa đi Ph vừa gọi điện cho Lâm Th nói dối với Lâm Th là Ph bị đánh trên xóm Mô, mục đích là gọi Th lên để xem Th có quen biết Kh, Lu hay không, nếu quen biết thì Th nói Kh, Lu ra xin lỗi Ph còn nếu không quen biết Kh, Lu thì Th giúp Ph đánh Lu vì Ph cho rằng khi Ph dừng xe nói chuyện với Kh, Lu thì Lu có hành động giơ tay lên định đánh Ph. Khi nghe điện thoại của Ph xong, Th nói Th đi tìm hung khí rồi chỉ đường cho Th lên xóm Mô để hỗ trợ Ph đánh lại những người đã đánh Ph như Ph thông báo. Th chạy ra bụi tre phía sau quán Karaoke Duy Mạnh lấy 01 con dao dài 55,5cm (cán bằng gỗ dài 18cm, lưỡi bằng kim loại dài 37,5cm có mũi nhọn) rồi Th điều khiển xe mô tô biển số 61F1-368.58 chở Th lên xóm Mô. Biết Th, Th đi đánh nhau nên Phan Linh Ph điều khiển xe mô tô biển số 84E1-314.09 chở Lâm Thị Tr đuổi theo xe của Th để gọi Th về.

Khi Ph lên đến cây xăng Lộc Xuân, thấy Lu, Kh, C đứng bên trong cây xăng, lúc này cây xăng đã đóng cửa, phía trước có hàng rào bằng lưới B40 chắn ngang nên Ph lấy một con dao bấm dài khoảng 15cm (cán và lưỡi dao bằng kim loại) để trên giỏ xe mô tô cầm trên tay đứng bên ngoài hàng rào, phía trước cây xăng đợi Th.

Tại đây, Ph nhận được điện thoại của Th nên thông báo cho Th biết Ph đang ở cây xăng Lộc Xuân thuộc khu phố 6, thị trấn Phước Vĩnh. Khoảng 5 phút sau, Th chở Th lên đến cây xăng Lộc Xuân, Th dừng xe phía trước cây xăng, Th cầm dao chỉ về phía Lu, Kh đang đứng trong cây xăng hỏi Lu, Kh có phải là người đã đánh Ph không, Lu trả lời không phải Lu, Kh mà người đánh Ph đã bỏ chạy rồi nên Th quay ra xe mô tô của Th, cất dao lên gác ba ga xe. Lúc này, ông Đàm Xuân H là chủ cây xăng thức dậy, đi ra chỗ Th nói “sao đứng đây tập trung đông người vậy” và ông Hạnh kêu mọi người về. Thấy Lu, Kh không có hành động đánh Ph nên Th nói với Lu ra gặp Th để nói chuyện nhằm mục đích giảng hòa, Lu đi ra chỗ Th, Th đang đứng, mời Th, Th hút thuốc. Trong khi Th, Th đang nói chuyện với Lu, Kh và ông Hạnh thì Ph đi lại chỗ Lu, yêu cầu Lu gọi C ra xin lỗi Ph nhưng Lu nói Lu không biết C ở đâu nên Ph bực tức và bất ngờ dùng dao đâm vào ngực phải của Lu một nhát, Lu bỏ chạy, Ph đuổi theo Lu. Khi Ph dùng dao đâm Lu và đuổi theo Lu thì Th không phát hiện mà chỉ có Th nhìn thấy nên Th đuổi theo Ph để can ngăn Ph nhưng do Lu chạy thoát, Ph đuổi theo không kịp nên Ph quay lại. Ph tiếp tục đẩy hàng rào xông vào bên trong cây xăng Lộc Xuân để tìm C, sợ Ph bị đánh nên Th, Th cũng đi vào cây xăng cùng Ph tìm người đã đánh Ph để hỏi lý do tại sao đánh Ph hoặc phòng khi Ph có bị ai đánh thì Th, Th sẽ hỗ trợ Ph đánh lại những người đó. Cùng lúc đó, Trang, Phương cũng chạy vào cây xăng để gọi Th về, Ph, Th, Th chạy vào cây xăng nhưng không thấy ai nên quay ra. Lúc này, Trương Hoài S đi ngang qua cây xăng Lộc Xuân, thấy Ph có biểu hiện định đánh ai đó nên Sum chạy vào nói Ph đi về. Sau khi cả bọn ra về, Kh, C đi tìm anh Lu nhưng không biết anh Lu bị Ph dùng dao đâm gây thương tích nên cả hai về cây xăng Lộc Xuân ngủ. Anh Phạm Đình L bị thương tích, chạy vào nhà người dân phía sau cây xăng Lộc Xuân và được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương.

Sau khi gây thương tích cho Phạm Đình L, Trịnh Ngọc Hoài Ph bỏ trốn khỏi địa phương, đến ngày 17/9/2018 Ph đến C an huyện Phú iáo đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Bản kết Lu giám định pháp y về thương tích số 335 ngày 10/8/2018 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Bình Dương kết Lu: Phạm Đình L vết thương ngực phải khoảng liên sườn 7-8 dưới núm vú phải khoảng 4cm, kích thước sẹo 3,5x0,1cm. Thấu bụng: thủng cơ hoành phải, thủng gan hạ phân thùy VIII đã khâu qua nội soi, sẹo mổ lành. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 46%.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện Phú Giáo thu giữ:

- 01 con dao dài 55,5cm (cán dao bằng gỗ dài 18cm, lưỡi bằng kim loại dài 37,5cm có mũi nhọn) của Trần Hữu Th.

- 01 xe mô tô 61F1-243.93. Đây là xe của Nguyễn Thị Ngọc M (vợ của Th) đứng tên chủ sở hữu, Th sử dụng xe của My đi đến quán Karaoke Duy Mạnh. Xét thấy, chiếc xe không liên quan đến việc phạm tội nên cơ quan điều tra đã trả lại cho Nguyễn Thị Ngọc M.

- Chiếc xe mô tô hiệu Sirius (không rõ biển số) Ph điều khiển đến cây xăng Lộc Xuân gây thương tích cho Phạm Đình L, Ph đã bán chiếc xe này cho 01 người không rõ họ tên, địa chỉ nên cơ quan điều tra không thu hồi được.

Riêng con dao bấm là C cụ Ph dùng gây thương tích cho Lu, sau khi gây án, Ph ném bỏ con dao vào thùng rác tại khu vực chợ Phước Vĩnh, huyện Phú Giáo nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Đi với chiếc xe mô tô biển số 61F1-368.58 của Lâm Th, không liên quan đến việc phạm tội nên cơ quan điều tra không thu giữ.

Về mặt dân sự: Bà Nguyễn Kim Ph là mẹ của Trịnh Ngọc Hoài Ph đã bồi thường chi phí điều trị thương tích cho người bị hại Phạm Đình L số tiền 40.000.000 đồng. Anh Lu yêu cầu Trịnh Ngọc Hoài Ph bồi thường thêm số tiền 40.000.000 đồng là tiền tổn thất tinh thần, Ph đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại.

Cáo trạng số 32/CT-VKSPG ngày 14/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo truy tố bị cáo Trịnh Ngọc Hoài Ph về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương thực hành quyền C tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố của Cáo trạng, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả, hành vi phạm tội của bị cáo Ph: Kiểm sát viên đề nghị cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Th khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, gia đình bị cáo có C với cách mạng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trịnh Ngọc Hoài Ph từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù.

Tại phiên tòa bị cáo cho rằng Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3, Điều 134 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra C an huyện Phú iáo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án: Do mâu thuẫn cá nhân, ngày 25/8/2018, Trịnh Ngọc Hoài Ph dùng dao đâm vào ngực phải của anh Phạm Đình L nhằm mục đích gây thương tích cho bị hại. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tạm thời là 46%.

Như vậy, Cáo trạng số 32/CT-VKSPG ngày 14/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo truy tố bị cáo Trịnh Ngọc Hoài Ph về Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến quyền được bảo vệ về sức khỏe, tính mạng của người khác mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi cố ý gây thương tích cho người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì một mâu thuẩn nhỏ mà cố ý thực hiện hành vi trái pháp luật. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt thật nghiêm tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo trở Th người C dân tốt cho xã hội và đảm bảo C tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo cho phù hợp.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Th khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, gia đình bị cáo có C với cách mạng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật, sớm nhận ra lỗi lầm của mình, an tâm cải tạo trở Th C dân tốt cho xã hội.

Xét thấy, mức án đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử chấp nhận. [4] Về việc xử lý vật chứng:

- Đối với 01 con dao dài 55,5cm (cán dao bằng gỗ dài 18cm, lưỡi bằng kim loại dài 37,5cm có mũi nhọn) của Trần Hữu Th, xét thấy không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô 61F1-243.93. Đây là xe của Nguyễn Thị Ngọc M đứng tên chủ sở hữu, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bà Nguyễn Thị Ngọc M.

- Đối với 01 (một) cây dao tự chế bằng kim loại, dài 70cm, một đầu nhọn, cán tròn bằng kim loại, lưỡi dao rộng 2,7cm là C cụ dùng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Phạm Đình L yêu cầu bị cáo Trịnh Ngọc Hoài Ph bồi thường tổn thất tinh thần số tiền 40.000.000 đồng, bị cáo Ph đồng ý bồi thường theo yêu cầu của anh Lu nên hội đồng xét xử ghi nhận.

- Đối với số tiền 40.000.000 đồng bà Nguyễn Kim Ph đã bồi thường cho bị hại, bà Phượng không yêu cầu Trịnh Ngọc Hoài Ph trả lại cho số tiền 40.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí hình sự và dân sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trịnh Ngọc Hoài Ph phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trịnh Ngọc Hoài Ph phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Về điều luật áp dụng và mức hình phạt: Áp dụng khoản 3 Điều 134, các điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Trịnh Ngọc Hoài Ph 05 (năm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 17/9/2018.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 585, 590, 591 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Buộc bị cáo Trịnh Ngọc Hoài Ph bồi thường cho ông Phạm Đình L số tiền tổn thất tinh thần là 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thi hành xong số tiền phải thi hành thì còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự, Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu huỷ 01 (một) con dao dài 55,5cm (cán dao bằng gỗ dài 18cm, lưỡi bằng kim loại dài 37,5cm có mũi nhọn) Trả lại cho bà Nguyễn Thị Ngọc M 01 xe mô tô 61F1-243.93. (Nhãn hiệu Sirius màu đỏ đen, số khung RLCS5C6KO FY217997, số máy: 5C6K-218002).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/5/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo).

5. Về án phí hình sự và dân sự sơ thẩm: Áp dụng các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/PL/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án buộc:

Bị cáo Trịnh Ngọc Hoài Ph phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng. Bị cáo Trịnh Ngọc Hoài Ph phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 2.000.000 đồng. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết C khai.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 39/2019/HS-ST ngày 22/07/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:39/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Giáo - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;