Bản án 39/2019/HS-ST ngày 16/08/2019 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 39/2019/HS-ST NGÀY 16/08/2019 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 40/2019/HSST ngày 26-7-2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Xuân S, sinh năm 1991; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn T, xã A, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Xuân T và bà Nguyễn Thị D;

Tiền án: Bản án hình sự số 34/2014/HSST ngày 17/10/2014 của TAND TP Hà Giang, tỉnh Hà Giang xử phạt Phạm Xuân S 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, giá trị tài sản chiếm đoạt 8.000.000 đồng, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/3/2015.

Bản án hình sự số 17/2017/HSST ngày 06/3/2017 của TAND huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xử phạt Phạm Xuân S 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” giá trị tài sản chiếm đoạt 5.100.000 đồng, chấp hành xong hình phạt ngày 20/9/2017.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 20/7/2012, bị Công an phường Ngọc Hà, TP Hà Giang, tỉnh Hà Giang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc”.

Ngày 09/10/2015, bị Công an huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc”, đã nộp phạt ngày 09/10/2015.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 18/6/2019 đến ngày 21/6/2019 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 21/6/2019 đến nay, có mặt.

- Người bị hại:

+ Anh Nguyễn Văn O, sinh năm 1972 và chị Phạm Thị Thanh B, sinh năm 1976; Đều trú tại: thôn T, xã A, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, đề nghị xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Ông Phạm Xuân T, sinh năm 1958, có mặt.

+ Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1988, vắng mặt.

+ Bà Phạm Thị C, sinh năm 1977, vắng mặt.

+ Bà Phạm Thị H, sinh năm 1966, vắng mặt.

Đu trú tại: thôn T, xã A, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.

+ Anh Phạm Đình T, sinh năm 1997, vắng mặt.

Trú tại: thôn A, xã A, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phm Xuân S đã có 02 tiền án, chưa được xoá án tích. Khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 01/8/2018, S cầm 01 tuýp sắt dài 1,2m-1,5m, 01 con dao màu xám dài khoảng 30cm, bản rộng 7-10cm đi bộ từ đường 391 về nhà. Khi đi đến nhà anh Nguyễn Văn O ở cùng thôn, S dùng tuýp sắt, dao rựa đập, chém nhiều nhát vào biển quảng cáo tại cổng nhà anh O làm rách bạt, cong vênh khung biển quảng cáo. Thấy vậy, chị Phạm Thị Thanh B (là vợ anh O) đang đứng trước hiên nhà nói, chửi S, thấy chị B chửi, S tiếp tục chạy vào hiên nhà anh O, dùng tuýp sắt đập nhiều nhát vào hai cánh cửa chính làm bằng kính cường lực làm cửa kính vỡ vụn rơi xuống nền gạch. Sau khi đập phá tài sản, S đi ra cổng và nhờ anh Phạm Đình T chở về nhà mình, sau đó bỏ trốn khỏi địa phương. Đến ngày 18/6/2019, S đến Công an tỉnh Hải Dương đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi đập phá tài sản của mình vào tối ngày 01/8/2018.

Kết luận định giá tài sản số 24/KLĐGTS ngày 16/8/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự UBND huyện Tứ Kỳ kết luận: 01 cửa có hai cánh được làm bằng khung gỗ bao quanh kính cường lực, kích thước 230 x 200cm. Phần kính bên trong khung gỗ dày 1,2cm, kích thước 181x176cm bị vỡ hoàn toàn, phần tay nắm chốt cửa và khung gỗ còn nguyên vẹn, không bị hư hỏng. Tại thời điểm ngày 01/8/2018 thiệt hại của tài sản được định giá 2.400.000 đồng; 01 biển quảng cáo khung sắt, bọc bạt kích thước 210x100cm, phần bạt căng trên khung sắt bị rách nhiều mảnh, khung sắt bị ép méo, lõm, rách kim loại kích thước 26x2cm. Tại thời điểm ngày 01/8/2018, thiệt hại của tài sản được định giá 250.000 đồng. Tổng giá trị các tài sản được định giá 2.650.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số: 39/CT-VKS ngày 24-7-2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ truy tố bị cáo Phạm Xuân S về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự (BLHS).

Ti phiên toà: VKSND huyện Tứ Kỳ giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 178; điểm b, s, h khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 BLHS. Tuyên bố bị cáo Phạm Xuân S phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”; xử phạt Phạm Xuân S từ 25 đến 28 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng: Không phải giải quyết; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, công nhận quyết định truy tố và nhất trí với luận tội của VKSND huyện Tứ Kỳ, không bổ sung, tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, lời khai của người bị hại, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường và kết luận định giá tài sản và các tài liệu khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 01/8/2018, tại gia đình anh Nguyễn Văn O ở thôn T, xã A, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Phạm Xuân S đã dùng dao bằng kim loại chém nhiều nhát làm rách bạt, cong khung kim loại biển quảng cáo tại cổng và dùng tuýp sắt kim loại đập nhiều nhát vào phần kính cường lực, làm vỡ toàn bộ kính cửa chính phòng khách của gia đình anh O. Tổng giá trị tài sản bị hư hỏng là 2.650.000 đồng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi đập phá tài sản của người khác trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Do bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” nên bị cáo phải chịu tình tiết định khung theo điểm g khoản 2 Điều 178 BLHS, như quyết định truy tố của VKSND huyện Tứ Kỳ là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội ở địa phương. Do vậy, cần xem xét xử lý theo quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, điều kiện nhân thân của bị cáo, thấy rằng: Mặc dù bị cáo đã hai lần bị kết án đều chưa được xoá án tích và lần phạm tội này được xác định là tái phạm nguy hiểm, tuy nhiên do đây là yếu tố định khung tăng nặng nên không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS, ngoài ra bị cáo còn hai lần bị xử lý vi phạm hành chính và đều được xoá tiền sự nhưng điều đó chứng tỏ là người có nhân thân xấu.

[4] Mặc dù quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, sau khi bỏ trốn đã ra đầu thú và đã tác động để gia đình bồi thường xong về trách nhiệm dân sự cho anh O, chị Bình, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s, h khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện tính khoan hồng của pháp luật, song dù có giảm nhẹ vẫn cần thiết buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian để chấp hành hình phạt tù mới đủ tác dụng giáo dục riêng bị cáo và đấu tranh, phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Đối với anh Nguyễn Văn T có hành vi chở S từ nhà anh O về nhà S nhưng không biết S vừa đập phá tài sản của gia đình anh O nên không phải chịu trách nhiệm:

[7] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo đã bồi thường toàn bộ giá trị các tài sản bị thiệt hại cho vợ chồng anh O, chị B. Người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên không đặt ra giải quyết.

[8] Về vật chứng: Đối với 01 tuýp sắt, 01 dao rựa bị cáo sử dụng để phạm tội, sau đó bị cáo đã vứt đi, Cơ quan điều tra không thu giữ được nên không đặt giải quyết.

[9] Về án phí: Bị cáo có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 178; điểm b, s, h khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Xuân S phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

Xử phạt bị cáo Phạm Xuân S 25 (Hai mươi lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, ngày 18/6/2019.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về ...án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Phạm Xuân S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, người bị hại vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

325
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 39/2019/HS-ST ngày 16/08/2019 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

Số hiệu:39/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;