TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 39/2019/HS-PT NGÀY 27/03/2019 VỀ TỘI HIẾP DÂM
Ngày 27 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 41/2019/TLPT-HS ngày 27 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Lưu Hồi T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2019/HS-ST ngày 14 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều.
- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Lưu Hồi T, sinh năm: 1997 tại Phú Yên. Nơi cư trú: Tổ 1, ấp G, xã C, huyện P, tỉnh Kiên Giang; chỗ ở: Nhà trọ 51L đường 3/2, phường K, quận N, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Sinh viên; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T1, sinh năm: 1969 và bà Lưu Thị S, sinh năm: 1972; em ruột có 02 người (lớn sinh năm: 2002, nhỏ sinh năm: 2009); bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại. (có mặt).
* Bị hại: Phan Nhật T2, sinh năm: 1995 (vắng mặt). Địa chỉ: Số 94 đường 24, khu dân cư Thới Nhựt 1, phường An Khánh, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ 50 phút ngày 11/6/2018, sau khi uống rượu – bia, Nguyễn Lưu Hoài T cùng Trần Anh Tuấn và Huỳnh Nghĩa Trọng về nhà trọ tại địa chỉ số 96 đường số 24, khu dân cư Thới Nhựt, phường An Khánh, quận N, thành phố Cần Thơ (nơi T ở trọ để đi học). Khi vào nhà thì Tuấn và Trọng ngồi phòng khách nói chuyện, còn T lên tầng 1 thay quần áo. Trong lúc thay quần áo, T nhìn thấy chị Phan Nhật T2 đang ở tầng 1 nhà số 94 liền bên nên nảy sinh ý định quan hệ tình dục với chị T2, T không mặc quần áo trèo từ ban công nhà số 96 sang ban công nhà chị T2. Khi T vừa vào nhà thì bị em Phan Nhật Anh (em của chị T2) phát hiện và truy hô nhưng T không dừng lại mà tiếp tục đi đến phòng tắm nơi chị T2 đang đứng rửa mặt; T tiến đến bên chị T2, dùng hai tay của mình nắm lấy hai tay của chị T2 và dùng vũ lực đè chị T2 xuống nền gạch trong phòng tắm, sau đó T nằm trên người chị T2 để quan hệ trái với ý muốn của chị T2; chị T2 vùng vẫy và cào cấu vào người của T để chống cự. Lúc này nghe tiếng truy hô, bà Lý Thị Ngoan (cô của chị T2) chạy đến phòng tắm nhìn thấy sự việc, bà Ngoan truy hô lên, chị T2 dùng chân đạp vào người T và vùng bỏ chạy. Sự việc được báo đến Công an phường An Khánh.
Khi lực lượng Công an phường An Khánh đến phát hiện Nguyễn Lưu Hồi T đang nằm ngủ trong phòng trống trên tầng 2 của nhà chị T2 nên đã đưa T về trụ sở Công an phường làm việc.
Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể: Nguyễn Lưu Hồi T có 05 vết trầy xước trên vùng ngực, tay và chân do người bị hại trong lúc chống cự gây ra. Người bị hại Phan Nhật T2 cũng bị các vết trầy xước và vết bầm trên cơ thể.
Ngày 12/6/2018, chị Phan Nhật T2 có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và xử lý Nguyễn Lưu Hồi T về hành vi Hiếp dâm, về trách dân sự không yêu cầu bồi thường.
Quá trình điều tra, Nguyễn Lưu Hồi T thừa nhận vào tối ngày 11/6/2018, T trèo lan cang sang nhà bên cạnh và dùng vũ lực để quan hệ sinh lý trái với ý muốn của người bị hại nhưng do người bị hại chống cự và bị phát hiện nên T chưa thực hiện được hành vi của mình.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 14/2019/HSST ngày 14/01/2019 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Lưu Hồi T phạm tội “Hiếp dâm”.
Căn cứ khoản 1 Điều 141, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 15 và Điều 57 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Lưu Hồi 02 năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Ngoài ra, bản án còn tuyên phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi tuyên án sơ thẩm, vào ngày 24/01/2019, bị cáo Nguyễn Lưu Hồi T có đơn kháng cáo xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự với lý do bị cáo đã ăn năn hối cải, đã bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả.
Ngày 24/01/2019, bị hại Phan Nhật T2 có đơn xin rút lại toàn bộ yêu cầu khởi tố đối với bị cáo Nguyễn Lưu Hồi T.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Lưu Hồi T thay đổi nội dung kháng cáo, yêu cầu được miễn hình phạt và không cung cấp thêm chứng cứ về các tình tiết mới.
Bị hại Phan Nhật T2 đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do.
Kiểm sát viên nhận định: Bản án sơ thẩm đã tuyên có căn cứ và đúng pháp luật, đúng với hành vi phạm tội của bị cáo; mức hình phạt đã tuyên là phù hợp, đã có xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không bổ sung thêm chứng cứ gì mới để xem xét. Tuy nhiên, người bị hại Phan Nhật T2 đã có đơn rút lại yêu cầu khởi tố đối với bị cáo, đây là tình tiết mới nên đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa án sơ thẩm; đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên miễn hình phạt đối với bị cáo Nguyễn LưuHồi T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Quá trình tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm đã tuân thủ các quy định của pháp luật, bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho những người tham gia tố tụng. Các chứng cứ tại hồ sơ đủ để kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như để giải quyết các vấn đề khác có liên quan.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại Phan Nhật T2 đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do nên căn cứ điểm b khoản 1 Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự để xét xử vắng mặt đối với chị T2.
[1] Lời thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của người bị hại. Bị cáo là người đã thành niên, có nhận thức pháp luật. Vào khoảng 23 giờ 50 phút ngày 11/6/2018, bị cáo đã có hành vi đột nhập vào phòng tắm nơi chị Phan Nhật T2 đang đứng rửa mặt, dùng vũ lực để giao cấu trái với ý muốn của chị T2; do chị T2 chống cự và hành vi của bị cáo bị phát hiện nên bị cáo không thực hiện được hành vi giao cấu. Hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Hiếp dâm” theo quy định tại Điều 141 Bộ luật Hình sự và người bị hại có đơn yêu cầu khởi tố vụ án; tại phiên tòa sơ thẩm, người bị hại vẫn giữ yêu cầu khởi tố vụ án nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự là đúng với hành vi phạm tội của bị cáo.
[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và sức khỏe của người bị hại, gây mất an ninh trật tự tại địa phương nên cần có mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để đảm bảo tính răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ hình phạt được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 15 và Điều 57 Bộ luật Hình sự nên chỉ xét xử bị cáo ở mức khởi điểm của khung hình phạt, mức án đã tuyên đối với bị cáo là không cao.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo và đơn yêu cầu của người bị hại. Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trong được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự nên không thuộc trường hợp không có sự việc phạm tội quy định tại khoản 1 và hành vi không cấu thành tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã xin lỗi, tự nguyện thỏa thuận bồi T2ờng thiệt hại nên người bị hại tự nguyện rút yêu cầu khởi tố vụ án đối với bị cáo. Do đây là vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại khoản 1 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự, việc người bị hại tự nguyện rút yêu cầu khởi tố vụ án là tình tiết mới phát sinh trong giai đoạn xét xử phúc thẩm; bị cáo cũng thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo kháng cáo xin được miễn hình phạt nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa án sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự như đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Sửa bản án sơ thẩm.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 141; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 15; Điều 57 và Điều 59 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Nguyễn Lưu Hồi T phạm tội “Hiếp dâm”. Miễn hình phạt đối với Nguyễn Lưu Hồi T.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành.
Bị cáo không phải nộp án phí phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 39/2019/HS-PT ngày 27/03/2019 về tội hiếp dâm
Số hiệu: | 39/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/03/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về