Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 17/10/2019 về không công nhận vợ chồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 39/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/10/2019 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN VỢ CHỒNG

Ngày 17 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Việt Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 155/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 5 năm 2019 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H – sinh năm 1971 (Có mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Bá L – sinh năm 1967 (Có mặt).

Đều trú quán: Thôn T, xã Q, huyện V, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa phía nguyên đơn là bà Nguyễn Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Bá L có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã Quang Châu, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang vào ngày 12/11/1988 (âm lịch), tuy nhiên hiện tại ông bà đã làm thất lạc giấy chứng nhận kết hôn. Quá trình chung sống, vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2013 thì bà đi xuất khẩu lao động, từ đó vợ chồng bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn. Những lần bà về thăm nhà đều bị ông L mắng chửi, đuổi bà ra khỏi nhà và bắt bà viết đơn ly hôn. Đến tháng 9/2018, bà về nước và về sống chung với ông L thì mâu thuẫn của vợ chồng ngày càng trầm trọng, ông L không thay đổi mà còn nhiều lần đánh chửi bà và đuổi bà ra khỏi nhà. Do đó đến cuối tháng 10/2018, bà về nhà mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân thì vợ chồng cũng không qua lại hỏi thăm để hàn gắn tình cảm gia đình, đời sống chung không hạnh phúc và mục đích của hôn nhân không đạt được; do vậy bà yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận bà và ông L là vợ chồng.

Về con chung: Trong thời gian chung sống, bà và ông L có 02 con chung là anh Nguyễn Bá Tr – sinh ngày 07/02/1990 và chị Nguyễn Thị N – sinh ngày 21/01/1993. Nay các con đều đã trưởng thành nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, ruộng canh tác chung, công nợ chung: Bà xác định vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Bá L trình bày tại các biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa:

Về quan hệ hôn nhân: Ông xác nhận lời trình bày của bà H về thời gian, địa điểm đăng ký kết hôn là đúng. Đối với giấy chứng nhận kết hôn thì ông bà không lưu giữ được. Theo ông, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng năm 2011 thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng xuất phát từ việc bà H không quan tâm đến gia đình, ông đã khuyên bảo nhiều lần nhưng bà H không thay đổi. Hơn nữa bà H còn tự ý đi lao động ở nước ngoài mà không được sự đồng ý của ông. Sau khi bà H về nước, vợ chồng vẫn sống chung một nhà nhưng không nói chuyện, hỏi han gì nhau, không ai quan tâm đến ai. Nay ông thấy tình cảm vợ chồng không còn nên ông cũng đề nghị Tòa án không công nhận ông và bà H là vợ chồng.

Về con chung: Trong thời gian chung sống, ông và bà H có hai con chung như bà H trình bày là đúng. Nay các con đều đã trưởng thành, đã lập gia đình và ra ở riêng nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, ruộng canh tác chung, công nợ chung: Ông xác định ông không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Anh Nguyễn Bá Tr và chị Nguyễn Thị N tại các biên bản lấy lời khai đều trình bày: Nguyên nhân mâu thuẫn của bà H ông L là do ông bà tính tình không hợp, trong cuộc sống hay xảy ra xô xát, cãi vã; bà H đi lao động nước ngoài nhưng không được sự đồng ý của ông L. Gia đình, họ hàng đã hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Nay bố mẹ ly hôn, anh chị không có ý kiến gì. Anh chị cùng xác định không có đóng góp gì vào tài sản chung của gia đình và không yêu cầu trích chia bất cứ phần công sức nào.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên: Về việc tuân theo quy định pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự. Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không công nhận bà H và ông L là vợ chồng, bà H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Nguyên đơn bà Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu Tòa án không công nhận bà và ông Nguyễn Bá L là vợ chồng; đối chiếu Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xác định quan hệ pháp luật của vụ án là tranh chấp ly hôn. Do vậy, xác định đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình theo Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông L có tổ chức lễ cưới theo phong tục truyền thống, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Quang Châu, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang nhưng giấy chứng nhận kết hôn thì ông bà cùng xác nhận không lưu trữ được và không cung cấp được các tài liệu chứng cứ nào khác để chứng minh cho việc đăng ký kết hôn theo như trình bày của ông bà. Căn cứ theo lời khai của nguyên đơn, bị đơn và qua xác minh tại UBND xã Quang Châu thì bà H ông L hiện sống tại địa phương và có chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1988. Hiện nay tại UBND xã Quang Châu không còn lưu trữ sổ sách về việc đăng ký kết hôn năm 1988.

Quá trình làm việc và tại phiên tòa, Toà án đã giải thích về việc đăng ký kết hôn lại cho bà H ông L theo quy định tại khoản 1 Điều 24 Nghị định 123/2015/NĐ-CP: “Việc khai sinh, kết hôn, khai tử đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trước ngày 01/01/2016, nhưng Sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ tịch đều bị mất thì được đăng ký lại”. Tuy nhiên, cả bà H và ông L đều xác định để làm căn cứ xác định hôn nhân hợp pháp hay không hợp pháp, nếu phải đăng ký lại theo quy định thì ông bà cũng không làm thủ tục đăng ký lại mà đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình chung sống đến năm 2013 thì bà H và ông L phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, không hiểu nhau nên thường xuyên xảy ra cãi vã, xô xát. Hiện tại thì bà H ông L không còn sống chung và đã ly thân từ tháng 10/2018 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Tại các biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa, cả bà H và ông L đều xác định không còn tình cảm và đều đề nghị Tòa án không công nhận ông bà là vợ chồng. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội; các Điều 14, 53 Luật Hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận vợ chồng giữa bà H và ông L là đúng quy định pháp luật.

[3] Về con chung: Trong thời gian chung sống, vợ chồng có 02 con chung là anh Nguyễn Bá Tr – sinh ngày 07/02/1990 và chị Nguyễn Thị N – sinh ngày 21/01/1993. Nay các con đều đã trưởng thành nên bà H và ông L đều không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản chung, ruộng canh tác chung, công nợ chung: Bà H và ông L đều xác định yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí: Bà Nguyễn Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng các Điều 14, 53, 57 Luật Hôn nhân và gia đình;

Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Bá L.

2. Bà Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2012/05400 ngày 22/5/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Việt Yên. Xác nhận bà H đã nộp đủ tiền án phí.

Báo cho nguyên đơn, bị đơn có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

390
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 17/10/2019 về không công nhận vợ chồng

Số hiệu:39/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;