TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 39/2017/DSST NGÀY 29/06/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
Ngày 29 tháng 6 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 113/2017/TLST- HN&GĐ, ngày 17 tháng 4 năm 2017 về tranh chấp Hôn nhân và Gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72 /2017/QĐXX-ST, ngày 15 tháng 6 năm 2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị C- sinh ngày 30 tháng 7 năm 1990.
Trú tại: Xóm 10 - xã B - huyện Y - tỉnh Nghệ An.
Nghề nghiệp: Nông nghiệp (có mặt)
- Bị đơn: Anh Trần Bá M - Sinh ngày 12 tháng 12 năm 1987.
Trú tại: Xóm 17- xã S - huyện Y - tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Nông nghiệp (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn ly hôn đề ngày 11 tháng 4 năm 2017, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án chị Nguyễn Thị C trình bày: chị và anh Trần Bá M kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có tìm hiểu, tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán, được sự đồng ý của hại gia đình và có đăng ký kết hôn vào ngày 11 tháng 2 năm 2015, tại Ủy ban nhân dân xã Sơn Thành, huyện Yên Thành. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 6 năm năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, hơn nữa, anh M còn có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Từ đó anh M sống không có trách nhiệm, không còn tình yêu thương dành cho chị C. Mặc dù chị C và gia đình hai bên nội ngoại đã khuyên giải nhiều lần để anh M thay đổi, quay về cùng chị xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng anh M không chấp nhận. Từ mâu thẫm đó, vợ chồng cắt đứt mọi quan hệ tình cảm và sống ly thân từ tháng 12 năm 2016 cho đến nay. Nay chị Nguyễn Thị C xác định tình cảm vợ chồng không còn nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu tòa án xét xử cho chị được ly hôn anh Trần Bá M
- Về con chung: chị Nguyễn Thị C trình bày vợ chồng chưa có con chung nên không yêu cầu Toà án giải quyết
- Về tài sản: Chị Nguyễn Thị C không yêu cầu tòa án giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau Khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Sau khi nghe ý kiến trình bày của chị Nguyễn Thị C tại phiên tòa, hội động xét xử nhận định:
1. Về tố tụng:
Trong quá trình giải quyết vụ án, toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị Nguyễn Thị C và anh Trần Bá M, yêu cầu anh, chị có mặt tại Toà án để giảiquyết vụ án nhưng anh M không có mặt. Vì vậy Toà án đã lập biên bản theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, làm cơ sở giải quyết vụ án.
Ngày 29 tháng 5 năm 2017, Tòa án Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đế phiên toà và đã tống đạt hợp lệ cho các đương sự. Tại phiên toà lần thứ nhất ngày 15/6/2017 chị Nguyễn Thị C có mặt, anh Trần Bá M vắng mặt không có lý do, vì vậy hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà. Để tiếp tục giải quyết vụ án, Toà án tiếp tục tống đạt hợp lệ giấy triệu tập phiên toà lần thứ hai cho chị Nguyễn Thị C và anh Trần Bá M, tuy nhiên tại phiên toà hôm nay anh M tiếp tục vắng mặt không có lý do. Như vậy, anh M không có yêu cầu phản tố, đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, căn cứ vào điểm b, khoản 2 điều 227của Bộ luật tố tụng dân sự, hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với bị đơn.
2. Về nội dung:
- Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị C và anh Trần Bá M kết hôn với nhau vào ngày 11 tháng 2 năm 2015, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Sơn Thành, vì vậy được xác định là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, sau một thời gian chung sống, mâu thuẫn vợ chồng nảy sinh ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, hơn nữa đầu năm 2016 anh M có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Tháng 12 năm 2016, vợ chồng sống ly thân và cự tuyệt mọi mặt tình cảm. Tháng 4 năm 2017, sau khi hai bên đến tòa án nộp đơn ly hôn xong anh Trần Bá M bỏ đi làm ăn, không quan tâm đến chị C nữa. Trên cơ sở đó xác định vợ chồng không còn gắn kết với nhau về tình cảm, hôn nhân thực sự tan rã, đời sống chung không thể kéo dài. Chị Nguyễn Thị C yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Bá M là chính đáng, cần chấp nhận yêu cầu đó của chị C.
- Con chung: Vợ chồng chưa có con chung nên tòa án không xem xét.
- Tài sản: Chị Nguyễn Thị C không yêu cầu tòa án giải quyết.
- Về án phí: Chị Nguyễn Thị C phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 2 điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; điều 51, 56 của Luật Hôn Nhân và Gia đình;
- Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị C được ly hôn anh Trần Bá M.
- Án phí: Căn cứ vào khoản 4, điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.
Buộc chị Nguyễn Thị C phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, án phí của chị C được tính trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Thành (Biên lai thu tiền số:0004996, ngày 17 tháng 4 năm 2017), như vậy chị C đã nộp đủ án phí.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt chị Nguyễn Thị C, vắng mặt anh Trần Bá M. Tuyên bố để các bên đương sự biết, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.
Bản án 39/2017/DSST ngày 29/06/2017 về tranh chấp hôn nhân gia đình
Số hiệu: | 39/2017/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/06/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về