TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 391/2020/DS-PT NGÀY 25/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GỬI GIỮ TÀI SẢN
Trong ngày 25 tháng 5 năm 2020 tại Phòng xử án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 636/2019/DSPT, ngày 24 tháng 12 năm 2019; về việc “Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 487/2019/DS-ST ngày 29/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1963/2020/QĐ-PT ngày 27/4/2020 giữa:
1. Nguyên đơn: Ông Hoàng Trần P, sinh năm 2000 Địa chỉ: 82/18 LLQ, thị trấn LC, huyện PL, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đại diện theo ủy quyền: Bà Hoàng Thị Kim B. (có mặt) Địa chỉ: 737/94 LLQ, Phường M, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bị đơn: Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT.
Trụ sở: 715 LLQ, Phường M, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thành N, sinh năm 1989 (có mặt) Địa chỉ: 33D LLQ, Phường M, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ HVG.
Trụ sở: 41 HV, Phường B, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Văn T. (vắng mặt) Địa chỉ: 21 HVN, Phường H, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Ông Nguyễn Thành N1, sinh năm 1986 (vắng mặt) Địa chỉ: 715 LLQ, Phường M, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.3. Ông Vũ Đức T1, sinh năm 1992 (vắng mặt) Địa chỉ thường trú: Thôn 15, xã EK, huyện KP, tỉnh Đăklăk.
Địa chỉ liên lạc: 536/43/84/5 AC, Phường M, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.4. Ông Đỗ Văn Đ. sinh năm 1995 (vắng mặt) Địa chỉ thường trú: Thôn 2, xã HP, huyện KB, tỉnh Đăklăk. Địa chỉ tạm trú: 27 BVĐ, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương.
3.5. Bà Hoàng Thị Kim B, sinh năm 1978(có mặt) Địa chỉ: 737/94 LLQ, Phường M, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Người kháng cáo:
Bị đơn – công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn – ông Hoàng Trần P có đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ngày 07/01/2017, ông Hoàng Trần P có mượn của ông Vũ Đức T1 chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số: 47M1-353.06 đến tiệm Internet tại địa chỉ: 715 đường LLQ, Phường M, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh do Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT là chủ sở hữu để chơi game. Khi đến tiệm Internet, ông P có gửi xe cho nhân viên giữ xe của tiệm Internet (ông Nguyễn Thành N1) và nhận vé giữ xe số 0073967 do Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ HVG phát hành. Khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, ông P ra về và đưa thẻ xe cho bảo vệ lấy xe, lúc này không phải là ông N1 mà là một bảo vệ khác nhưng không tìm thấy xe, do hai bên không tự giải quyết thương lượng được nên ông P có đến Công an Phường M, quận TB trình báo sự việc mất xe. Vì thỏa thuận không được nên ông P khởi kiện yêu cầu Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT phải bồi thường giá trị chiếc xe bị mất với số tiền là 40.000.000đ (Bốn mươi triệu) đồng và yêu cầu Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT hoàn trả lại cho ông P tiền chi phí định giá tài sản là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn) đồng, yêu cầu trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Bị đơn Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT có đại diện theo pháp luật trình bày:
Từ thời gian xảy ra vụ án cho đến nay là hơn hai năm, trong thời gian này ông N có nhận được hai văn bản của cơ quan điều tra và Tòa án đình chỉ vụ án vì không có chứng cứ. Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT không đồng ý bồi thường số tiền 40.000.000 đồng theo yêu cầu của ông Hoàng Trần P.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Vũ Đức T1 trình bày:
Chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số: 47M1-353.06 do ông Vũ Đức T1 đứng tên đăng ký xe. Vào thời điểm tháng 01/2017, ông Tài có đến nhà của Hoàng Trần P chơi, tại đây P có mượn chiếc xe máy của ông để làm phương tiện đi lại, ông đồng ý cho P mượn kèm theo giấy đăng ký xe. Ngày 09/01/2017, gia đình P điện thoại thông báo chiếc xe P mượn đã bị mất, sau đó gia đình P đã bồi thường cho ông số tiền 35.000.000 đồng, để thuận tiện cho việc giải quyết chiếc xe bị mất tại Công an quận TB, giữa bà Hoàng Thị Kim B (mẹ ruột của P) và ông T1 có lập giấy mua bán xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số: 47M1-353.06 ghi ngày 02/11/2016, thực tế giữa ông và bà Hoàng Thị Kim B không có việc mua bán chiếc xe máy trên. Chiếc xe máy bị mất đã được gia đình P bồi thường, giữa các bên đã giải quyết xong, vì vậy ông không có ý kiến hay đưa ra yêu cầu độc lập gì trong vụ án.
2. Bà Hoàng Thị Kim B trình bày:
Vào ngày 07/01/2017, Hoàng Trần P (là con trai của bà B) có mượn của anh Vũ Đức T1 chiếc xe máy biển số: 47M1-353.06 đến tiệm Internet, địa chỉ 715 đường LLQ, Phường M, quận T chơi game và có xảy ra việc mất chiếc xe trên. Bà B đã bồi thường cho anh Vũ Đức T1 số tiền 35.000.000 đồng và có yêu cầu anh T1 viết giấy tay mua bán xe đề ngày 02/11/2016, thực tế giữa các bên không có việc mua bán chiếc xe máy trên. Về tranh chấp giữa Hoàng Trần P với Công ty N sẽ do hai bên tự giải quyết với nhau, bà không có ý kiến.
3. Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ HVG có ông Phan Văn T là người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Giữa Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ HVG và Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT có ký Hợp đồng dịch vụ bảo vệ số: 0104/HĐDVBV/2016 ngày 01/4/2016 và Phụ lục hợp đồng số: 0109/PLHD/2016 ngày 01/9/2016. Nhiệm vụ của Công ty HVG là cung cấp 01 nhân viên với vị trí là bảo vệ giữ xe và bảo đảm an ninh trật tự trực tại tiệm Internet của Công ty NT tại địa chỉ: 715 đường LLQ, Phường M, quận TB. Thời gian ca trực từ 14 giờ 30 phút đến 22 giờ 30 phút. Theo quy trình làm việc khi nhân viên bảo vệ Công ty HVG đến thì có giao ca, bàn giao công việc của ca trước qua ca sau. Vào ngày 07/01/2017, Công ty HVG có cử anh Đỗ Văn Đ là nhân viên của công ty đến trực bảo vệ ở mục tiêu tại Công ty NT, địa chỉ: 715 đường LLQ, Phường M, quận TB. Khi nhân viên bảo vệ của Công ty HVG đến nhận nhiệm vụ ca trực, giữa nhân viên giữ xe của Công ty NT và nhân viên bảo vệ của Công ty HVG có bàn giao lại các xe trong bãi nhưng không có chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số:
47M1-353.06. Công ty HVG xác nhận vé xe số 0073967 do nguyên đơn giao nộp cho Tòa án là vé xe do Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ HVG phát hành. Vé xe được nhân viên Công ty HVG sử dụng để ghi thẻ xe cho khách, đồng thời cũng được nhân viên của Công ty NT sử dụng để ghi thẻ xe tại tiệm Internet của mình. Về tranh chấp giữa ông Hoàng Trần P với Công ty NT thì Công ty HVG không có ý kiến và không có trách nhiệm bồi thường hay các nghĩa vụ khác về việc mất chiếc xe nói trên.
4. Ông Đỗ Văn Đ trình bày:
Trước đây ông Đ làm việc tại Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ HVG, công việc làm bảo vệ. Tháng 12/2016, ông Đ được công ty phân công trực bảo vệ tại Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT, địa chỉ: 715 đường LLQ, Phường M, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh với nhiệm vụ giữ xe cho khách khi vào tiệm Internet. Ca trực giữ xe của ông Đ từ 14 giờ 00 phút đến 22 giờ. Từ ca sáng đến 14 giờ là do nhân viên của Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT chịu trách nhiệm trông giữ xe. Khoảng 14 giờ 35 phút, ngày 07/01/2017 ông Đ đến Công ty NT để làm việc. Theo quy trình khi khi nhận ca trực, ông Nguyễn Thành N1 (là nhân viên giữ xe của Công ty NT) có trách nhiệm bàn giao xe cho ông, ông Đ có trách nhiệm ghi lại toàn bộ biển số xe trong tiệm Internet do ông N1 giao lại, ông Đ đã kiểm tra nhưng không thấy chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số: 47M1-353.06 nào và ông Đ đã giao lại tờ giấy ghi biển số xe cho ông N1 giữ. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, có 01 thanh niên (tên Hoàng Trần P) đi ra từ tiệm Internet có đưa vé giữ xe số 0073967 do Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ HVG phát hành để bảo vệ lấy xe, tuy nhiên sau khi kiểm tra không tìm thấy chiếc xe máy gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số: 47M1- 353.06 nên ông Đ có báo ông P và ông Nguyễn Thành N1 biết sự việc. Theo ông P cho biết, vé giữ xe do ông Nguyễn Thành N1 giao trực tiếp cho ông P, sau khi đôi co qua lại ông P có đến Công an Phường M trình báo sự việc mất xe và Công an có xuống làm việc, tiếp theo vụ việc như thế nào thì ông không rõ. Ông Đ xác nhận vé giữ xe số 0073967 do ông P đưa để bảo vệ lấy xe là do Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ HVG phát hành, giữa 02 ca trực tại Công ty NT đều dùng chung vé giữ xe của Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ HVG. Vé giữ xe giao cho khách giữ, còn cùi vé xe do bảo vệ của mỗi ca trực giữ, việc ông N1 giao cùi hay vé giữ xe cho khách trong ca trực của mình thì ông Đ không rõ.
5. Ông Nguyễn Thành N1:
Ông Nguyễn Thành N1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần tự khai và hai lần thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông N1 vắng mặt nên không có lời khai tại Tòa án.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 487/2019/DS-ST ngày 29/10/2019 của Toà án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hoàng Trần P.
Buộc Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT phải bồi thường cho ông Hoàng Trần P số tiền 40.000.000đ (Bốn mươi triệu) đồng là giá trị chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số: 47M1-353.06 bị mất, ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Các bên thực hiện dưới sự giám sát của Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
2. Về chi phí tố tụng: Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT có trách nhiệm hoàn trả lại cho ông Hoàng Trần P số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn) đồng tiền chi phí định giá tài sản.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 12/11/2019, bị đơn – công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn trình bày: vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Đề nghị cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Người kháng cáo đồng thời là bị đơn công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT trình bày: giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì không có căn cứ pháp lý. Phía nguyên đơn không xuất trình được chứng cứ, thẻ giữ xe không có chữ ký, không ghi ngày tháng nên không thể cho rằng đây là chứng cứ liên quan đến việc giữ xe của công ty ông, không có camera ghi lại hình ảnh gửi xe.
Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về hình thức: Thẩm phán và Hội đồng xét xử phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cho đến diễn biến phiên tòa phúc thẩm, các đương sự được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Về nội dung: Đề nghị cấp phúc thẩm bác kháng cáo của ông công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và sau khi nghe ý kiến phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hình thức:
Bị đơn công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT nộp đơn kháng cáo, Biên lai thu tạm ứng án phí phúc thẩm đúng thời hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên Đơn kháng cáo của Công ty NT được chấp nhận.
[2] Về nội dung:
Trong Đơn kháng cáo ngày 12/11/2019 và tại phiên tòa, bị đơn công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.
Qua xem xét các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, việc tranh luận tại phiên tòa cũng như quá trình và kết quả giải quyết vụ việc qua các cấp Tòa án, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Theo kháng cáo của phía bị đơn thì bị đơn không đồng ý bồi thường do không có cơ sở để cho rằng nguyên đơn có gửi xe tại điểm internet của Công ty NT. Mặc dù, bị đơn không thừa nhận có việc gửi giữ tài sản là chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số: 47M1-353.06 nhưng theo chứng cứ nguyên đơn giao nộp cùng các tài liệu, chứng cứ do Tòa án xác minh thu thập tại Công an Phường M, quận TB và Công an quận TB thể hiện: Ngày 07/01/2017, ông P có đến tiệm Internet của Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT tại địa chỉ:
715 đường LLQ, Phường M, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh để chơi game. Khi đến tiệm Internet, ông P có gửi xe cho nhân viên giữ xe của công ty và nhận vé giữ xe số 0073967. Khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, ông P ra về và xuất trình vé xe cho bảo vệ để lấy xe thì phát hiện chiếc xe ông gửi đã bị mất. Vé xe này có số 0073967 do Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ HVG phát hành. Chứng cứ này đã được đại diện Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ HVG thừa nhận. Do đó, đã đủ cơ sở xác định giữa ông Hoàng Trần P và Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT đã xác lập hợp đồng gửi giữ tài sản theo quy định tại Điều 554 Bộ luật dân sự năm 2015. Việc trông giữ tài sản để xảy ra mất mát thuộc trách nhiệm của Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT và Công ty NT phải bồi thường thiệt hại về tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều 556 và khoản 4 Điều 557 Bộ luật dân sự năm 2015. Giữa Công ty TNHH Công nghệ thông tin NT và Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ HVG có ký hợp đồng dịch vụ bảo vệ nếu có tranh chấp sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.
Từ nhận định như trên, Hội đồng xét xử nhận thấy tại phiên tòa Phúc thẩm phía bị đơn không đưa ra được chứng cứ nào chứng minh cho việc phía bị đơn không phải chịu trách nhiệm đối với việc gửi giữ tài sản đã bị mất của nguyên đơn hiện nay, lý do kháng cáo đưa ra rằng thẻ xe không có chữ ký, không ghi ngày tháng, không có camera an ninh ghi lại hình ảnh gửi xe và cơ quan điều tra đã tạm đình chỉ điều tra vụ án là không có cơ sở. Do đó, yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT không có căn cứ để chấp nhận.
Chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Do giữ nguyên bản án sơ thẩm, yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn - Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Căn cứ Luật Thi hành án dân sự.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 487/2019/DS-ST ngày 29/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Như sau:
1.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hoàng Trần P. Buộc Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT phải bồi thường cho ông Hoàng Trần P số tiền 40.000.000đ (Bốn mươi triệu) đồng là giá trị chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số: 47M1-353.06 bị mất, ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Các bên thực hiện dưới sự giám sát của Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
1.2. Về chi phí tố tụng: Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT có trách nhiệm hoàn trả lại cho ông Hoàng Trần P số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn) đồng tiền chi phí định giá tài sản.
2. Về án phí 2.1. Án phí dân sự sơ thẩm - Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 2.000.000đ (Hai triệu) đồng. Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT chưa nộp án phí.
- Hoàn trả lại cho ông Hoàng Trần P số tiền 1.000.000đ (Một triệu) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí Tòa án số AA/2018/0037112 ngày 02 tháng 10 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh 2.2. Án phí dân sự phúc thẩm Bị đơn - Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 nghìn đồng được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí phúc thẩm Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT đã tạm nộp theo biên lai tạm ứng án phí phúc thẩm số: AA/2018/0039356 ngày 12 tháng 11 năm 2019 Chi cục Thi hành án dân sự quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh. Bị đơn đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 391/2020/DS-PT ngày 25/05/2020 về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản
Số hiệu: | 391/2020/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 25/05/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về