Bản án 390/2021/HS-ST ngày 05/10/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 390/2021/HS-ST NGÀY 05/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 05 tháng 10 năm 2021, tại trụ Tòa án nhân dân thành phố B đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 378/2021/HSST ngày 25/06/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 356/2021/QĐXXST-HS ngày 29/06/2020; Quyết định hoãn phiên toà số 951/HHST-QĐ ngày 13/7/2021 và các Thông báo dời phiên toà số 1033/TB-TA ngày 30/7/2021; số 1059/TB-TA ngày 30/8/2021; số 1010/TB-TA ngày 16/9/2021 đối với bị cáo:

Ngô Hoàng Anh V; Giới tính: Nam; Sinh ngày 12 tháng 10 năm 1995; Nơi sinh: tỉnh thành phố H.

Nơi cư trú: không có nơi cư trú rõ ràng (nhưng có đăng ký NKTT tại 17/17/9, đường 10, tổ 9, khu phố 1, phường T, thành phố Th, thành phố H); Quốc tịch: Việt Nam - Dân tộc: Kinh - Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Làm thuê.

Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không.

Trình độ học vấn: Lớp 05/12; Họ tên cha: Ngô Anh D, sinh năm: 1964, còn sống. Họ tên mẹ: Hoàng Thị L, sinh năm: 1975, còn sống. Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 10/5/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố B, tỉnh Đ.

- Bị hại: Ông Phạm Thanh T, sinh năm 1964.

Địa chỉ: 29/1, Khu phố Nhất Hòa, phường Hiệp Hòa, thành phố B, tỉnh Đ.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan

1. Ông Đỗ Thành Đ, sinh năm 1987.

Địa chỉ: 324, ấp Tân Định, Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, thành phố H.

2. Ông Nguyễn Thanh Ph, sinh năm 1976.

Địa chỉ: 6/1, đường 55, ấp Thượng, Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, Thành phố H.

3. Bà Nguyễn Thị Kim Dung, sinh năm 1979.

Địa chỉ: 6/1, đường 55, ấp Thượng, Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, Thành phố H.

4. Ông Trịnh Lâm Giang, sinh năm 1978.

Địa chỉ: 95/33, Khu phố 3, phường Tân Ph, thành phố B, tỉnh Đ.

(Bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngô Hoàng Anh V là người làm thuê trông coi Trại hòm Dương Hoàng Thọ, địa chỉ 29/1, khu phố Nhất Hòa, phường Hiệp Hòa, thành phố B, tỉnh Đ do ông Phạm Thanh T (sinh năm 1964) làm chủ. Vào Khoảng 04 giờ ngày 23/10/2020, trong lúc trông coi tại Trại hòm, V thấy xe mô tô biển số 60F1- 044.86 của ông T dựng ở trước sân nhà nên nảy sinh ý định trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài, V đi đến lấy chùm chìa khóa treo ở trên tường mở xích khóa xe rồi nổ máy xe mô tô biển số 60F1-044.86 chạy đến tiệm sửa xe máy tên Thành Đ, địa chỉ 324, ấp Tân Định, xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, thành phố H do ông Đỗ Thành Đ (sinh năm 1987) ngụ tại ấp Hòa Lợi, xã Hòa Thuận, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang làm chủ, V đi vào bán xe cho ông Đ và nói là xe của V mua lại không có giấy tờ, ông Đ nói V chạy xe mô tô biển số 60F1-044.86 đến khu vực Sài Gòn sẽ có người đến mua. Sau khi V điều khiển xe đi đến điểm hẹn thì ông Đ điện thoại nói cho người tên Linh (không rõ nhân thân) đến gặp V mua xe máy biển số 60F1-044.86 với số tiền 1.500.000 đồng (một triệu, năm trăm nghìn đồng) đem về cho ông Đ, Linh đồng ý và đi đến gặp V đưa 1.500.000 đồng (một triệu, năm trăm nghìn đồng) cho V rồi Linh lấy xe về đưa cho ông Đ, số tiền bán xe V đã tiêu xài hết. Đến ngày 01/11/2020, ông Đ bán xe mô tô biển số 60F1-044.86 lại cho ông Nguyễn Thanh Ph (sinh năm 1976), ngụ tại ấp Thượng, xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, thành phố H với số tiền 1.500.000 đồng (một triệu, năm trăm nghìn đồng).

Đến ngày 17/12/2020, anh Trịnh Phát Đạt (sinh năm 2000), ngụ tại khu phố 7, phường Tân Ph, thành phố B, tỉnh Đ là cháu của ông T biết V đang ở Công an phường Dĩ An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương nên đã đưa V về Công an phường Hiệp Hòa, thành phố B, tỉnh Đ để giải quyết và lập hồ sơ ban đầu chuyển đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B để điều tra theo thẩm quyền. Sau khi biết xe mô tô biển số 60F1-044.86 là xe do V trộm cắp mà có nên ông Ph đã nói vợ là bà Nguyễn Thị Kim Dung giao nộp cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B.

Quá trình điều tra, ngoài hành vi phạm tội nêu trên thì V còn khai nhận vào ngày 12/12/2020, V có hành vi lấy xe mô tô Future Neo (không rõ biển số), điện thoại Vivo của một người bị tai nạn (không rõ nhân thân) tại đoạn đường Quốc Lộ 550 thuộc phường Dĩ An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đem đi cầm được 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng) và đã tiêu xài hết. Sau đó, V đã nhờ người đăng thông tin thông tin tìm chủ xe máy Future Neo và điện thoại lên mạng xã hội và gặp được người bị tai nạn nên V đã chuộc lại tài sản trả lại cho người này. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã tiến hành xác minh tại Công an phường Dĩ An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương không có tiếp nhận nguồn tin về tội phạm về sự việc trên. Do người bị tai nạn không rõ nhân thân không làm việc được và ngoài lời khai của V ra thì không có tài liệu chứng cứ nào khác để chứng minh V có hành vi lấy xe mô tô, điện thoại nêu trên nên không có căn cứ để xử lý đối với V.

Vật chứng vụ án: 01 (một) xe mô tô biển số 60F1-044.86 là huộc sở hữu của ông Phạm Thanh T nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho ông T là có căn cứ đúng quy định pháp luật.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 602/KL-HĐĐGTS ngày 31/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận 01 (một) xe mô tô biển số 60F1-044.86 có tổng giá trị tài sản định giá là 6.296.500 đồng (Sáu triệu, hai trăm chín mươi sáu nghìn, năm trăm đồng).

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị hại ông Phạm Thanh T đã nhận lại tài sản và người liên quan anh Nguyễn Thanh Ph không yêu cầu bồi thường và cũng không có yêu cầu gì khác đối với bị cáo V.

Tại bản cáo trạng số 396/CT/VKS-BH ngày 23/06/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Ngô Hoàng Anh V về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại Điều 173, khoản 1 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa ngày hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173 để xử phạt bị cáo V về tội danh “Trộm cắp tài sản”; áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đồng thời tuyên phạt bị cáo Ngô Hoàng Anh V mức án từ: 10 tháng tù giam đến 12 tháng tù giam.

Đối với ông Đỗ Thành Đ, ông Nguyễn Thanh Ph và người tên Linh (không rõ nhân thân) có hành vi mua xe mô tô biển số 60F1-044.86, nhưng ông Đ, ônh Ph và người tên Linh không biết đây là tài sản do V phạm tội mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B không xử lý đối với ông Đ, ông Ph và người tên Linh là có căn cứ đúng quy định pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy Đ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, lời khai bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng có tại hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trước khi mở phiên toà, bị cáo Ngô Hoàng Anh V có đơn xin xét xử vắng mặt có xác nhận của Nhà tạm giữ công an Thành phố Biên Hoà. Việc làm đơn của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, áp dụng điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật tố tụng hình sự để xét xử vắng mặt bị cáo V.

Người bị hại ông Phạm Thành T và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Đỗ Thành Đ; ông Nguyễn Thanh Ph; bà Nguyễn Thị Kim Dung; ông Trịnh Lâm Giang vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên ông T đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường và đã có lời khai thể hiện tại hồ sơ vụ án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thanh Ph; bà Nguyễn Thị Kim Dung; ông Trịnh Lâm Giang cũng không yêu cầu bị cáo V phải bồi thường cũng như không có yêu cầu gì khác đối với bị cáo và cũng đã có lời khai thể hiện tại hồ sơ vụ án. Do đó, việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ theo quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

Xét thấy, quá trình điều tra, truy tố và đơn xin xét xử vắng mặt bị cáo V thống nhất với nội dung Bản cáo trạng mô tả hành vi phạm tội của mình, theo đó, hồ sơ vụ án thể hiện do muốn có tiền tiêu xài nên vào khoảng 04 giờ ngày 23/10/2020, tại Trại hòm Dương Hoàng Thọ, địa chỉ 29/1, khu phố Nhất Hòa, phường Hiệp Hòa, thành phố B, tỉnh Đ, Ngô Hoàng Anh V đã thực hiện hành vi lén lút trộm cắp 01 xe mô tô biển số 60F1-044.86 của ông Phạm Thanh T, tài sản trên theo kết luận định giá có tổng giá trị là 6.296.500 đồng, sau đó đem đi tiêu thụ. Lời khai này của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Do đó, đã có Đ cơ sở kết luận bị cáo V phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, như nội dung cáo trạng đã truy tố và bản luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu tại phiên tòa ngày hôm nay.

Hành vi phạm tội của bị cáo Ngô Hoàng Anh Vình là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp tài sản của người khác là khách thể được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Nhận thấy, hiện nay các loại tội phạm xâm phạm về sỡ hữu ngày một nhiều, mức độ trẻ hóa tội phạm cũng như mức độ nguy hiểm cho xã hội do loại tội phạm này gây ra cũng ngày một tăng. Bản thân bị cáo V là một thanh niên đã trưởng thành, có sức khỏe, có khả năng lao động, có khả năng tìm kiếm được một công việc phù hợp để tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân. Tuy nhiên, vì lòng tham cá nhân và muốn có tiền tiêu xài mà bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của ông Phạm Thanh T là chủ trại hòm nơi bị cáo làm việc, cũng là người đã cưu mang bị cáo trong những ngày bị cáo lang thang, cơ nhỡ, không có việc làm, không có nơi ở ổn định. Với hành vi này cần thiết phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên, xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn, hối cải về hành vi đã thực hiện, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản đã được thu hồi trả lại cho người bị hại. Đây là những tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị hại ông Phạm Thanh T đã nhận lại tài sản và người liên quan anh Nguyễn Thanh Ph không yêu cầu bồi thường, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4].Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo V phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ngô Hoàng Anh V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về áp dụng điều luật: Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 290; khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự; Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

- Về mức hình phạt: Xử phạt bị cáo Ngô Hoàng Anh V: 10 (Mười) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 10/05/2021.

- Về án phí: Buộc bị cáo Ngô Hoàng Anh V phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo; Bị hại và Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên qua được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 390/2021/HS-ST ngày 05/10/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:390/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;