Bản án 382/2019/HSPT ngày 10/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 382/2019/HSPT NGÀY 10/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 299/HSPT ngày 31/7/2019 đối với bị cáo Nguyên Phúc N do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 73/2019/HSST ngày 18/6/2019 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Phúc N; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1984 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 27/4/18 Lê Trực, Phường A, quận B, Thành phố C; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thanh M và bà Phạm Thị Tuyết M2; Hoàn cảnh gia đình: Có vợ là bà Lê Kim L, chưa có con; Tiền án: Không;

Tiền sự:

- Ngày 24/10/2017, Công an Phường 2, quận Phú Nhuận xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” đã đóng phạt xong.

- Ngày 15/01/2018, công an Phường 7, quận Phú Nhuận xử phạt 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Tạm giữ, tạm giam ngày: 02/02/2019 - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 07/6/2019, Nguyễn Phúc N, Trương Phước L cùng Mai Văn C đến khách sạn Hoàng Anh số 33A Trần Bình Trọng, Phường D, quận B thuê phòng số 203 để sử dụng ma túy đá. Sau đó, C nói với N và L biết trước nhà số 64 Nguyễn Duy, Phường E, quận B có để nhiều xe gán máy, không người trông coi, dễ lấy trộm, C kêu N, L đến trộm xe bán lấy tiền tiêu xài, N, L đồng ý. Sáng ngày 08/6/2018, C đưa tiền cho N, L đi mua 01 vít đóng 06 ly, N điều khiển xe mô tô biển số 53S9-8307 chở L đến đường Bùi Hữu Nghĩa (không rõ địa chỉ) mua 01 vít đóng mang về khách sạn đưa cho C. C mang về nhà mài thành 01 đoản phá khóa quay lại đưa cho N, L dặn khoảng 13 giờ đến 14 giờ vắng người dễ lấy trộm xe, rồi C bỏ đi. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, N điều khiển xe mô tô biển số 53S9-8307 chở L đến đầu đường Nguyễn Duy, Phường E, quận B bỏ L xuống đi bộ theo sau, N một mình chạy xe đến trước nhà số 64 Nguyễn Duy, Phường E, quận B, N xuống xe đi đến dời xe mô tô biển số 86B8-198.59 của chị Phạm Thị Hồng D ra cho L thấy, L đi bộ đến nhìn quanh thấy không có người trông coi nên lấy đoản ra phá khóa xe nổ máy bỏ chạy cùng N về lại khách sạn Hoàng Anh, N điện thoại báo cho C biết, C cho N số điện thoại của D (không rõ lai lịch) để bán xe của chị D2, D cho N số điện thoại của Cường (không rõ lai lịch) để bán xe, Cường hẹn N đến chợ Nguyễn Đình Chiểu, quận Phú Nhuận (không rõ địa chỉ), N chạy xe chị D2 đến bán cho Cường được 03 triệu đồng, N về khách sạn chia cho L 900.000 đồng, N được 500.000 đồng nên trả tiền phong khách sạn, số tiền còn lại C lấy hết.

Đến khoảng 17 giờ, ngày 08/6/2018, chị Phạm Thị Hồng D phát hiện xe mô tô biển số 86B8-198.59 của mình bị mất trộm nên đến công an Phường 3, quận Bình Thạnh trình báo sự việc.

Sau khi tiếp nhận tin báo, Cơ quan điều tra - Công an quận Bình Thạnh tiến hành truy xét thì phát hiện Trương Phước L có liên quan đến vụ việc nên mời về làm việc, tại trụ sở Cơ quan điều tra - Công an quận Bình Thạnh, L đã thừa nhận cùng Nguyễn Phúc N có hành vi trộm cắp xe mô tô biển số 86B8- 198.59 của chị Phạm Thị Hồng D trước nhà số 64 Nguyễn Duy, phường E, quận B như đã nêu trên. Do N bỏ trốn, nên Cơ quan điều tra - Công an quận Bình Thạnh tách vụ án để xử lý L trước. Đến ngày 02/02/2019, Cơ quan điều tra - Công an quận Bình Thạnh đã mời được N đến làm việc, tại đây N đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản của mình như đã nêu trên.

Ngày 07/8/2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Bình Thạnh có Thông báo số 104 kết luận: Một xe gắn máy hai bánh hiệu Yamaha Sirius, biển số 86B8-198.59, có giá trị là 09 triệu đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 73/2019/HSST ngày 18/6/2019 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phúc N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Nguyễn Phúc N01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày: 02/02/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết về trách nhiệm dân sự, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03/7/2019 bị cáo Nguyễn Phúc N có đơn kháng cáo với nội dung xin được giảm thời gian chấp hành hình phạt tù.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt hành vi phạm tội, hậu quả tội phạm mà bị cáo thực hiện đã cho rằng:

Bị cáo Nguyễn Phúc N đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt về tội: “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Phúc N có đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định là hợp lệ.

Xét thấy, bị cáo Nguyễn Phúc N có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là chiếc xe gắn máy hai bánh hiệu Yamaha Sirius, biển số 86B8-198.59 có giá trị 9.000.000 đồng nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 01 (một) năm tù, về tội: “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội.

Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Mức hình phạt 01 (một) năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo là thỏa đáng, không nặng. Bị cáo kháng cáo xin được giảm án, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, để có thể xem xét cho bị cáo được giảm hình phạt tù.

Vì vậy, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Phúc N mà giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Nguyễn Phúc N01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày: 02/02/2019.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Phúc N khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm cho bị cáo được giảm thời gian chấp hành hình phạt tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Bình Thạnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân quận Bình Thạnh, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

Bị cáo Nguyễn Phúc N có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác nên đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 173 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03/7/2019 bị cáo Nguyễn Phúc N có đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định là hợp lệ.

Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận thấy:

Bị cáo Nguyễn Phúc N có hành vi “Trộm cắp tài sản” là chiếc xe gắn máy hai bánh hiệu Yamaha Sirius, biển số 86B8-198.59 có giá trị 9.000.000 đồng. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo N01 (một) năm tù.

Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy: Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ như bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người bị hại số tiền 10.000.000 đồng, bị cáo có thời gian phục vụ trong quân đội tại Ban chỉ huy Trung đoàn Gia Định, đã có nhiều giấy khen của đơn vị cơ quan nơi làm việc trước đây, hiện bị cáo là lao động chính trong gia đình để áp dụng điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là phù hợp với quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Phúc N không xuất trình thêm tình tiết nào mới để Hội đồng xét xử có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc giữ nguyên mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Phúc N là phù hợp.

Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Phúc N, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Phúc N phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Phúc N; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử pht: Nguyễn Phúc N 01 (một) năm về tội “Trộm cắp tài sản”.

Thời hạn tù tính từ ngày: 02/02/2019.

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 382/2019/HSPT ngày 10/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:382/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;