Bản án 38/2023/HS-ST về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VỊ THỦY, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 38/2023/HS-ST NGÀY 27/09/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 27/9/2023 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 36/2023/TLST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2023/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 8 năm 2023, Thông báo hoãn phiên tòa số 182/TB-TA, ngày 14 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo: Lư Hồng V, tên gọi khác: không, sinh ngày 03/9/1992, tại Cần Thơ; nơi cư trú: 31/9B M, phường An H, quận N, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lư Hồng Xẹt, sinh năm 1962 và bà Phạm Thị Nguyệt Hồng, sinh năm 1965; Bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Ngày 25/8/2023, bị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 11 năm tù về tội trộm cắp tài sản. Tiền sự: Ngày 11/11/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian 12 tháng, chưa thi hành.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can để tạm giam từ ngày 10/3/2021 cho đến nay do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng bắt tạm giam. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hậu Giang.

Bị cáo vắng mặt tại phiên toà.

- Bị hại:

1. Ông Dương Đại Đ, sinh năm 1989.

Nơi cư trú: ấp Tân Điền, xã Giục Tượng, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Hoàng T, sinh năm 1982.

2. Phạm Văn N, sinh năm 1996.

3. Liên Văn Cảnh E, sinh năm 2003.

4. Đoàn Văn T1.

Người làm chứng vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ, ngày 20/12/2022, Nguyễn Hoàng T, sinh năm: 1982, đăng ký thường trú: khu vực An H, phường Bình T, thị xã L, tỉnh Hậu Giang; Phạm Văn N, sinh năm: 1996, đăng ký thường trú: ấp 3, xã H, huyện Phụng H, tỉnh Hậu Giang; Liên Văn Cảnh E, sinh năm: 2003, đăng ký thường trú: ấp Trường L, xã T, huyện Châu T, tỉnh Hậu Giang; Lư Hồng V, sinh năm: 1992, đăng ký thường trú: số 31/9B, đường M, phường An H, quận N, thành phố Cần Thơ; Đoàn Văn T1, sinh năm: 1977, đăng ký thường trú: ấp 2, xã Vị Đ, huyện V, tỉnh Hậu Giang và Dương Đại Đ, sinh năm: 1989, đăng ký thường trú: ấp Tân Đ, xã G, huyện C, tỉnh Kiên Giang đang bị tạm giam tại buồng giam số 8 khu C3 thuộc Trại Tạm giam Công an tỉnh Hậu Giang.

Sau khi, cán bộ quản giáo phát cơm, gia vị để ăn cơm chiều thì T, N, Cảnh E, V, Đ và T1 chia nhau mỗi người một việc làm, Lư Hồng V chia phần rau và thịt để dự trữ, Dương Đại Đ ngồi trên giường bê tông làm nước chấm. Lúc này, V mới nhìn Đ, Đ mới nói “Mày nhìn tao cái gì”, V trả lời “nhìn cũng không cho nữa hả, vậy từ đây về sau em không nhìn nữa”, Đ nói “mày nhìn tao mắc cở”, V không nói gì và đứng lên đi lên giường bê tông nơi Đ đang ngồi và dùng đầu gối phải thúc vào vùng mặt Đ một cái, Đ té ngã vào vách tường.

Lúc này T, N, Cảnh E và T1 vào can ngăn V lại và trình báo sự việc đến cán bộ quản giáo và đưa Đ đi Bệnh viện điều trị.

Căn cứ vào Bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 37/23/TgT, ngày 15/02/ 2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Hậu Giang kết luận thương tích của Dương Đại Đ như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Chấn thương vùng trán, lún xương trán;

- Gãy xương chính mũi;

- Lõm xương sọ thùy trán hai bên;

- Tụ máu ngoài màng cứng thùy trán hai bên đã phục hồi.

2. Kết luận:

- Chấn thương trán gây tổn hại đến sức khỏe hiện tại. Theo TT số 22/2019/TT-BYT là: 20% (Hai mươi phần trăm);

- Tổng tỷ lệ thương tật gây tổn hại đến sức khỏe hiện tại. Theo TT số 22/2019/TT-BYT là: 20% (Hai mươi phần trăm);

- Vật gây thương tích: Chấn thương trán do vật tày gây nên;

- Cơ chế hành thành vết thương: Chấn thương trán có chiều hướng từ trước ra sau, từ dưới lên trên.

Tại bản Cáo trạng số 37/CT-VKS-HVT ngày 16/8/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang đã truy tố bị cáo Lư Hồng V về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015. Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Vị Thủy vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 02 đến 03 năm tù.

Bị cáo vắng mặt tại phiên tòa, tại bản tự khai ngày 14/9/2023 bị cáo thừa nhận hành vi của mình như Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố.

Người bị hại Dương Đai Đ vắng mặt tại phiên tòa, có đơn yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại, người làm chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Bị cáo Lư Hồng V, bị hại Dương Đại Đ, người làm chứng Nguyễn Hoàng T, Phạm Văn N có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, người làm chứng Liên Văn Cảnh E, Đoàn Văn T1 vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy bị cáo, bị hại và người làm chứng đã có lời khai và phù hợp với nội dung cáo trạng và các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ nên việc vắng mặt của bị cáo, bị hại và người làm chứng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 290, 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[3]. Về nội dung vụ án: Qua xem xét tài liệu chứng cứ trong hồ sơ và bản tự khai của bị cáo Lư Hồng V. Bị cáo Lư Hồng V đã thừa nhận hành vi của mình và thống nhất với nội dung cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo nên có đủ cơ sở xác định:

Trong thời gian tạm giam cùng với Dương Đại Đ, Nguyễn Hoàng T, Phạm Văn N, Liên Văn Cảnh E, Đoàn Văn T1 tại buồng 8 khu C3 thuộc Trại tạm giam Công an tỉnh Hậu Giang. Vào khoảng 16 giờ, ngày 20/12/2022, sau khi cán bộ quản giáo phát cơm để ăn cơm chiều thì T, N, Cảnh E, V, Đ và T1 phân chia công việc cho nhau để chuẩn bị ăn cơm. Lúc này, V có nhìn Đ, thấy V nhìn nên Đ hỏi thì V và Đ có nói qua lại tuy nhiên không có cự cải gì với nhau. Do V không vừa ý với câu trả lời của Đ nên V dùng chân đá trúng vào vùng mặt của Đ một cái. Mục đích V đá gây thương tích cho Đ và không có ý nhằm vào vùng nào trên người Đ. Đ bị V đá té ngã vào vách tường thì được T, N, Cảnh E và T1 đỡ Đ dậy và can ngăn V lại đồng thời trình báo sự việc đến cán bộ quản giáo.

Căn cứ vào Bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 37/23/TgT, ngày 15/02/ 2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Hậu Giang kết luận thương tích của Dương Đại Đ như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Chấn thương vùng trán, lún xương trán;

- Gãy xương chính mũi;

- Lõm xương sọ thùy trán hai bên;

- Tụ máu ngoài màng cứng thùy trán hai bên đã phục hồi.

2. Kết luận:

- Chấn thương trán gây tổn hại đến sức khỏe hiện tại. Theo TT số 22/2019/TT-BYT là: 20% (Hai mươi phần trăm);

- Tổng tỷ lệ thương tật gây tổn hại đến sức khỏe hiện tại. Theo TT số 22/2019/TT-BYT là: 20% (Hai mươi phần trăm);

- Vật gây thương tích: Chấn thương trán do vật tày gây nên;

- Cơ chế hành thành vết thương: Chấn thương trán có chiều hướng từ trước ra sau, từ dưới lên trên.

Như vậy, có căn cứ kết luận bản Cáo trạng số 37/CT-VKS-HVT ngày 16/8/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang đã truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4]. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi phạm tội của các bị cáo thể hiện sự xem thường pháp luật và xem thường sức khỏe của người khác. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây mất trật tự an ninh tại nơi giam giữ. Do vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo đã gây ra để bị cáo tự nhận thức, sửa chữa lỗi lầm của mình và giáo dục bị cáo thành công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời răn đe tình hình phạm tội phát sinh nói chung.

[5]. Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, bị hại có yêu cầu bãi nại cho bị cáo được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[6]. Xét đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

[9]. Bị cáo, bị hại được kháng cáo theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lư Hồng V phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Về điều luật áp dụng:

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 56, Điều 38 Bộ luật hình sự.

3. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo 02 (hai) năm tù về tội cố ý gây thương tích.

Tổng hợp hình phạt 11 (mười một) năm tù về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án số 613/2023/HS-PT ngày 25/8/2023 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Buộc bị cáo phải chấp hình phạt chung của cả hai bản án là 13 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 10/3/2021.

4. Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về vật chứng:

Không có nên không xem xét.

6. Về án phí:

Bị cáo phải nộp 200.000 đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

7. Bị cáo, bị hại được kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 38/2023/HS-ST về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:38/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vị Thuỷ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;