Bản án 38/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 38/2021/HS-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 4 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số: 30/2021/TLST- HS ngày 26 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/QĐXXHS- ST ngày 14-4-2021 đối với bị cáo:

Lê Thành T (tên gọi khác: không), sinh năm 1993 tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, giới tính nam; nơi cư trú: Số 159 Tổ 18, ấp T, xã P, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 10/12. Con ông: Lê Th , sinh năm 1960 và bà: Nguyễn Thị Q , sinh năm 1966. Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có 2 anh em. Vợ, con: chưa có.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 04/LC-Đội CSHS-KTMT ngày 28-12-2020 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Điền. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến: Cao Kim Ng , sinh năm 1994; địa chỉ: Số 289/9 Trần Xuân S, phường T, Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Thành T, là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 09 giờ 00 ngày 03-12-2020, khi T đang ở nhà thuê thuộc tổ 2, khu phố S, thị trấn Long Điền, huyện Long Điền cùng với bạn gái Cao Kim Ng thì có một người bạn ngoài xã hội tên là Đ(chưa rõ nhân thân lai lịch) gọi điện thoại nói đến nhà cùng T sử dụng ma túy(do trước đó 02 người có sử dụng chung ma túy vài lần), T đồng ý. Khi Đ đến nhà, T chỉ cho Đ vào phòng ngủ số 01 không có người dùng chỉ để đựng quần áo cho Đ sử dụng một mình trước vì T sợ Ng biết, còn T vào phòng số 02 để ngủ cùng với Ng. Đến 13 giờ cùng ngày, Đ sử dụng ma túy xong đi về. Sau đó, Đ điện thoại nói cho T biết số ma túy còn lại Đ đựng trong túi ny lon bỏ vào 01 hộp bằng giấy hình chữ nhật để phía trên nóc tủ đựng quần áo và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy trong phòng (số 01) để cho T sử dụng, T đồng ý nhận. Lúc này, T đến trước cửa phòng số 01 nhìn vào thấy bộ sử dụng ma túy và 01 cái hộp giấy để trên nóc tủ nhưng T chưa vào phòng lấy để sử dụng do Ng có ở nhà. Đến 00 giờ 15 phút ngày 04/12/2020, Công an thị trấn Long Điền kiểm tra hành chính bắt quả tang T đang tàng trữ 01 gói ma túy trên. Qua làm việc, T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Bản Kết luận giám định số 509/GĐMT-PC09 ngày 11-12-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự (PC 09) Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu kết luận: Mẫu chất kết tinh không màu-trong suốt được niêm phong trong một phong bì màu trắng có hình dấu của Công an thị trấn Long Điền-Công an huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cùng các chữ ký ghi rõ họ tên: Đại úy Nguyễn Văn Dũng, Lê Thành T, Nguyễn Mạch Thành Nguyên, Nguyễn Thị Hằng, Dương Văn Tuân gửi đến giám định có khối lượng 0,9910 gam, là chất ma túy loại Methamphetamine.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Vật chứng thu giữ và xử lý:

01 gói ma túy đá sau khi giám định được niêm phong trong một phong bì màu trắng, vụ số 509 ngày 11-12-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; 01 hộp giấy hình chữ nhật, kích thước 16cm x 7,5cm, trên hộp có ghi chữ Sam sung; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá. Hiện đã chuyển Cơ quan Chi cục thi hành án Dân sự huyện Long Điền bảo quản, chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 37/CT-VKSLĐ ngày 25 tháng 3 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, truy tố Lê Thành T, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Kiểm sát viên giữ quyền công tố phát biểu luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố: Lê Thành T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo từ 14 đến 18 tháng tù.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy gói ma túy còn lại sau khi giám định số 509 ngày 11-12- 2020; 01 hộp giấy hình chữ nhật, kích thước 16cm x 7,5cm, trên hộp có ghi chữ Sam sung; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.

Đối với người đàn ông tên Đ để lại gói ma túy cho T sử dụng(chưa rõ nhân thân, lai lịch), Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

Đối với Cao Kim Ng, trong quá trình điều tra Ng không liên quan đến hành vi tàng trữ ma túy của T nên không có cơ sở xử lý.

Tại phiên tòa: Bị cáo xác nhận hành vi phạm tội theo đúng như Bản cáo trạng mà viện kiểm sát truy tố, bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt để về đoàn tụ cùng gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Long Điền, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi thực hiện tội phạm: Lê Thành T xác nhận vào khoảng 00 giờ 15 phút, ngày 04-12-2020, tại nhà thuê của T thuộc tổ 2, khu phố S, thị trấn Long Điền, huyện Long Điền, bị Công an thị trấn Long Điền phát hiện và bắt quả tang về hành vi cất giấu 01 gói ma túy trong túi ny lon đựng trong một cái hộp hình chữ nhật trên phía trên nóc tủ đựng quần áo trong phòng ngủ số 01, có khối lượng 0,9910 gam, là ma túy loại Methamphetamine, nhằm mục đích để sử dụng. Lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi cất giữ ma túy để sử dụng của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Tính chất, mức độ phạm tội: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, việc sử dụng trái phép chất ma túy còn là một tệ nạn xã hội mà Nhà nước kiên quyết bài trừ, là nguyên nhân gây ra căn bệnh HIV/AIDS đe dọa đến sức khỏe của bản thân, cộng đồng và gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là người trưởng thành có trình độ học vấn nên nhận thức được việc làm của mình là sai trái, nhưng do lối sống buông thả, lười học tập và lao động nên bị cáo đi vào con đường phạm tội. Do đó, cần xử mức án nghiêm khắc đủ thời gian giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt cho gia đình và xã hội nhằm phòng ngừa tội phạm chung. Xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và phạm tội lần đầu, áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Đối tượng người đàn ông tên Đ để ma túy lại cho T sử dụng(chưa rõ nhân thân, lai lịch) Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh xử lý sau.

Đối với Cao Kim Ng trong quá trình điều tra xác định, Ng không liên quan đến việc tàng trữ ma túy của T nên không có cơ sở xử lý.

[5] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy gói ma túy đá sau khi giám định được niêm phong trong một phong bì màu trắng, vụ số 509 ngày 11-12-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 hộp giấy hình chữ nhật, kích thước 16cm x 7,5cm.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000đ(Hai trăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Tuyên bố: Lê Thành T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Lê Thành T 16 (Mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự. Tịch thu tiêu hủy gói ma túy đá sau khi giám định được niêm phong trong một phong bì màu trắng, vụ số 509 ngày 11-12-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá;

01 hộp giấy hình chữ nhật, kích thước 16cm x 7,5cm(Toàn bộ Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Điền đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng số 65/BB-THA ngày 25-3-2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Long Điền).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200. 000đ(Hai trăm ngàn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 38/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:38/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;