Bản án 38/2021/HS-ST ngày 20/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 38/2021/HS-ST NGÀY 20/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 31/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Đào Đức B (tên gọi khác: Không), sinh ngày 07 tháng 3 năm 1977 tại tỉnh Hưng Yên. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn I, xã T, huyện K, tỉnh H; chỗ ở: Phòng số 5, dãy nhà trọ bờ suối L, khối 4, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Đức N (đã chết) và bà Vũ Thị H; chưa có vợ, con: chưa có; tiền án: 01 tiền án tại Bản án số 52/2006/HS-ST ngày 31/10/2006 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh H đã xử phạt 09 (chín) tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/5/2007 nhưng chưa chấp hành xong tiền truy thu và án phí; tiền sự: Không; Nhân thân: Đã từng bị kết án về tội trộm cắp tài sản, hình phạt 09 (chín) tháng tù giam theo Bản án số 77/2007/HSST ngày 14/11/2007 của Tòa án nhân dân huyện k, tỉnh H, nay đã được xóa án tích; đã từng bị xử lý hành chính 03 lần đều đã được xóa, bao gồm ngày 08/3/2006 bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản công dân theo Quyết định số 01/QĐ-XPHC của Công an xã Đ, huyện K, tỉnh H; ngày 06/8/2003, bị Ủy ban nhân dân tỉnh H ra Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục về hành vi trộm cắp tài sản, sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn 24 tháng; ngày 28/01/2013, bị Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn ra Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục về hành vi trộm cắp tài sản thời hạn 24 tháng; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 15/12/2020, bị tạm giam từ ngày 18/12/2020 cho đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Đào Đức H, sinh năm 1980. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 45b/3 đường B, khối 1, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn L. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 20 phút ngày 15/12/2020, tại khu vực quán nước đối diện số nhà 29 đường N, phường V, thành phố L, Công an thành phố Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang Đào Đức B có hành vi mua bán trái phép chất ma tuý. Quá trình bắt quả tang, lực lượng công an đã phát hiện, thu giữ: trong lòng bàn tay trái của Đào Đức B số tiền 120.000đ; thu giữ trong túi áo bên trái phía trước Đào Đức B đang mặc có 01 (một) gói giấy màu trắng bên trong có 02 (hai) gói giấy màu trắng có dòng kẻ đều chứa chất bột màu trắng; 01 (một) gói giấy màu vàng bên trong có 03 (ba) gói giấy màu trắng có dòng kẻ đều chứa chất bột màu trắng; 01 (một) ví giả da màu đen bên trong có 310.000đ, 01 (một) chứng minh nhân dân số 145426588, 01 thẻ điều trị Methadone số 2090100411 đều mang tên Đào Đức B, 01 (một) giấy đăng kí xe mô tô mang tên Đào Đức H; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu đen; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel vỏ màu vàng-đen;

01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu sơn đen-xám, biển kiểm soát 12P1-193.55.

Cùng ngày 15/12/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn đã thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đào Đức B, quá trình khám xét không phát hiện thu giữ gì.

Tại Bản kết luận giám định số 21/KL-PC09 ngày 16 tháng 12 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn đã kết luận: Chất bột màu trắng có trong 02 (hai) gói giấy nhỏ có dòng kẻ bọc ngoài bằng 01 (một) gói giấy (loại giấy vệ sinh màu trắng) gửi giám định đều là chất ma tuý Heroine có tổng khối lượng là 0,069 gam (đã trừ bì); Chất bột màu trắng có trong 03 (ba) gói giấy nhỏ có dòng kẻ bọc ngoài bằng 01 (một) gói giấy (loại giấy vệ sinh màu vàng) gửi giám định đều là chất ma tuý Heroine có tổng khối lượng là 0,115 gam (đã trừ bì). Như vậy, tổng khối lượng chất ma túy Heroine gửi giám định là 0,184 gam (đã trừ bì).

Tại cơ quan điều tra, Đào Đức B khai nhận: Bản thân sử dụng trái phép chất ma tuý từ năm 2000 và không có việc làm nên ngày 15/12/2020 Đào Đức B một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter biển kiểm soát 12P1-193.55 đi từ phòng trọ đến khu vực cổng chào thôn P, xã M, thành phố L để tìm mua ma tuý về bán kiếm lời. Đào Đức B gặp một người đàn ông tên L (không rõ lai lịch) hỏi mua 500.000 đồng ma túy Heroine, L đồng ý, Đào Đức B đưa cho L 500.000 đồng. L bỏ đi khoảng 5 phút sau quay lại đưa cho B 01 (một) gói giấy màu trắng bên trong có 02 (hai) gói giấy nhỏ có dòng kẻ, 01 (một) gói giấy màu vàng bên trong có 03 (ba) gói giấy nhỏ có dòng kẻ đều chứa ma tuý heroine rồi bỏ đi. Mua được ma tuý, Đào Đức B cất giấu ma tuý trong túi áo khoác bên trái, phía trước B đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi đến quán nước đối diện số nhà 29 đường N, phường V, thành phố L với mục đích để có ai hỏi mua ma túy thì sẽ bán để kiếm lời. Khi Đào Đức B đang ngồi ở quán nước thì có một người đàn ông, không rõ lai lịch đến hỏi mua ma tuý, Bình nói giá một gói ma tuý là 120.000đ (một trăm hai mươi nghìn đồng), người đàn ông đồng ý và đưa tiền cho Bình, Bình cầm tiền trong tay trái rồi bảo nam thanh niên đi ra ngoài đợi, khi người đàn ông vừa đi khỏi thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang như đã nêu trên.

Ngày 14/01/2021 Cơ quan điều tra đã trả cho anh Đào Đức H 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu đen xám, biển kiểm soát 12P1-193.55 và 01 giấy đăng ký xe mô tô mang tên Đào Đức H, sau khi nhận anh Đào Đức H không có ý kiến gì.

Với nội dung trên, tại Cáo trạng số 39/CT-VKS ngày 24/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố Đào Đức B về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Đào Đức B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đào Đức H trình bày đã nhận lại tài sản gồm 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu đen xám, biển kiểm soát 12P1-193.55 và 01 giấy đăng ký xe mô tô mang tên Đào Đức H, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo Đào Đức B về việc bố mẹ bị cáo đều được tặng thưởng huân, huy chương nhưng do chuyển nhà nên đã mất hết các giấy tờ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đào Đức B phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy; căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đào Đức B từ 30 tháng đến 36 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật; tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định bên trong có 120.000đồng; trả lại cho bị cáo 01 (một) chứng minh nhân dân số 145426588 mang tên Đào Đức B, 01 thẻ điều trị methadone số 2090100411 mang tên Đào Đức B, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, số IMEI 355347088836115 cũ đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu vàng – đen số IMEI 357001094003347 cũ, 01 ví giả da màu đen cũ, đã do không liên quan đến hành vi phạm tội; 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định bên trong có 310.000đồng. Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng bị cáo trình bày xin được chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với hành vi của mình đã gây ra, từ năm 2018 đến năm 2020 bị cáo thường xuyên phải chăm sóc bố năm 2020 bố bị cáo đã mất, bị cáo xin được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất để có cơ hội sớm trở về chăm sóc mẹ già, xây dựng gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay đều phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 15/12/2020, tại quán nước đối diện số nhà 29 đường N, phường V, thành phố L, bị cáo Đào Đức B có hành vi tàng trữ trong túi áo khoác bên trái đang mặc 05 gói giấy nhỏ chứa ma tuý Heroine, với mục đích có ai hỏi mua thì bán để kiếm lời, tổng khối lượng chất ma túy Heroine gửi giám định là 0,184 gam (đã trừ bì). Hành vi nêu trên của bị cáo Đào Đức B đã đủ căn cứ để xác định bị cáo phạm vào tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, làm băng hoại đạo đức xã hội và là nguyên nhân phát sinh tệ nạn xã hội khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện để hưởng lợi bất hợp pháp.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân: Bị cáo có một tiền án về tội trộm cắp tài sản theo Bản án số 52/2006/HS-ST ngày 31/10/2006 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh H tuy bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/5/2007 nhưng chưa chấp hành xong tiền truy thu và án phí nên lần kết án trên của bị cáo không thuộc trường hợp đương nhiên xóa án tích theo quy định tại điều 70 của Bộ luật Hình sự, do vậy, lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đào Đức H trình bày bị cáo có bố mẹ được tặng thưởng huân huy chương, tuy nhiên không giao nộp được tài liệu để chứng minh, do đó Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét thêm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Về nhân thân, xác định bị cáo có nhân thân không tốt do ngoài tiền án trên, bị cáo đã từng bị kết án về tội trộm cắp tài sản theo Bản án số 77/2007/HSST ngày 14/11/2007 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh H, nay đã được xóa án tích; ngoài ra, còn đã từng bị xử lý hành chính 03 lần nhưng đều đã được xóa, bao gồm ngày 08/3/2006 bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản công dân theo Quyết định số 01/QĐ-XPHC của Công an xã Đ, huyện K, tỉnh Hưng Yên;

ngày 06/8/2003, bị Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên ra Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục về hành vi trộm cắp tài sản, sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn 24 tháng; ngày 28/01/2013, bị Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn ra Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục về hành vi trộm cắp tài sản thời hạn 24 tháng.

[5] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo nhận thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định phù hợp với hành vi phạm tội bị cáo gây ra, để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Bị cáo không có tài sản riêng vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo.

[7] Đối với người đàn ông tên L đã bán ma tuý cho bị cáo và nam thanh niên mua ma túy với bị cáo, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không có kết quả, không đủ căn cứ để xử lý trong vụ án, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về việc xử lý vật chứng: Đối với số ma túy còn lại sau khi giám định thu giữ của bị cáo là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành vì vậy cần tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định bên trong có 120.000đồng là số tiền bị cáo có được từ việc bán ma túy cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước. Đối với một số vật chứng còn lại không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo, bao gồm: 01 (một) chứng minh nhân dân số 145426588 mang tên Đào Đức B, 01 (một) thẻ điều trị methadone số 2090100411 mang tên Đào Đức B, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, số IMEI 355347088836115 cũ đã qua sử dụng, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu vàng – đen số IMEI 357001094003347 cũ, đã qua sử dụng; 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định bên trong có 310.000đồng.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50; điểm c khoản 1 điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Đào Đức B phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Xử phạt bị cáo Đào Đức B 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/12/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định (chất ma túy);

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định bên trong có 120.000đồng (một trăm hai mươi nghìn đồng);

- Trả lại cho bị cáo 01 (một) ví giả da màu đen kích thước 1,5cm x 9,5cm x 12,5cm cũ, đã qua sử dụng; 01 (một) chứng minh nhân dân số 145426588 mang tên Đào Đức B; 01 (một) thẻ điều trị methadone số 2090100411 mang tên Đào Đức B; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, số IMEI 355347088836115 cũ đã qua sử dụng, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu vàng – đen số IMEI 357001094003347 cũ, đã qua sử dụng; 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định bên trong có 310.000đồng (ba trăm mười nghìn đồng).

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/3/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Đào Đức B phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 38/2021/HS-ST ngày 20/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:38/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;